Đường lão thái quân mới đầu nghe Đường Kính Chi chính miệng nói chuyện mình chọn người kế nghiệp mới, lòng vừa đau khổ vừa thiếu tự nhiên, dù sao Đường Kính Chi còn sống sờ sờ ra đó, chuyện này không thích hợp cho lắm.
Nhưng càng nghe càng thấy Đường Kính Chi đánh giá Đường Lễ Chi không sai chút nào, mặt không khỏi biến sắc, bà nhắm vào cái tính ngang ngạnh không chịu thua thiệt của Đường Lễ Chi, nghĩ như thế không kẻ nào dám có ý đồ kiếm chác từ Đường phủ, nhưng ở thời điểm này, càng không chịu thua thiệt, kết quả càng tồi tệ.
Dân không đấu với quan, nếu không càng ngang ngạnh thì chết càng nhanh! Cho dù là phụ đạo nhân gia chỉ quản việc nhà thì Đường lão thái quân vẫn biết cái đạo lý này.
Đường Kính Chi thấy lão thái quân hiểu ra rồi, liền an ủi:
- Nãi nãi, chuyện này không trách người được, nếu trách thì phải trách sức khỏe cháu kém coi, hại người phải lo lắng sợ hãi, cho nên mới nhìn nhầm người.
Hít thật sâu một hơi, Đường lão thái quân lấy khăn thấm mồ hôi trên trán, càng nghĩ càng sợ:
- Cháu ngoan, may mà còn có cháu, nếu không .. nếu không nãi nãi phải tận mắt nhìn thấy Đường phủ bị hủy rồi! Lúc ấy nãi nãi còn mặt mũi nào xuống suối vàng gặp gia gia cháu và liệt tổ liệt tông Đường gia nữa! Nãi nãi già rồi, vô dụng rồi, tiếp theo cháu định làm thế nào?
Nói tới đó mắt Đường lão thái quân ánh lên một vẻ tàn nhẫn.
Đường Kính Chi đã nhìn rõ con người Đường lão thái quân, cho nên không ngạc nhiên vì tốc độ trở mặt của bà nữa:
- Cháu định tạm thời giữ Tam đệ trong phủ trong phủ, không cho ra ngoài, còn Trân di nương cũng nhốt lại.
Mặc dù Đường Lễ Chi chỉ là con tiểu thiếp, nhưng mẹ con hắn cũng có hạ nhân trung thành, Trân di nương chua ngoa đanh đá nhưng khéo miệng giỏi lấy lòng người, không rõ đã mua chuộc được bao nhiêu người trong Đường phủ, nếu để mẹ con nhà đó biết không còn cơ hội trở mình nữa, khó đảm bảo không không có hành động quá khích.
Đường lão thái quân càng nghĩ nhiều hơn, chỉ cần ngày nào sức khỏe Đường Kính Chi chưa phục hồi, bà luôn phải chuẩn bị cả hai đằng, nhưng có một Đường Lễ Chi chắn ngang đó, lão tứ Đường Liêm Chi và lão ngũ Đường Diệu Chi tính tình nhu nhược không thể ngồi vững trên ghế gia chủ được, mắt đảo một vòng, tức thì có tính toán.
~~~~~~~~~~~o0o~~~~~~~~~~~
Vương triều Minh Hà từ khi cao tổ lập quốc tới nay đã có hơn ba trăm năm, đất đai rộng lớn, nhân khẩu vô cùng, tổng cộng có 18 châu, gần như đem hết những vùng đất có tài nguyên phong phú nạp vào bản đồ, người dân Vương triều Minh Hà da vàng tóc đen tự xưng người Đường tộc, vì quốc gia sơ khai của bọn họ bắt đầu xây dựng ven sông Đường Thủy.
Phía đông bắc vương triều Minh Hà là địa bàn của người Ngột Thuật, nơi đó được gọi là hoang nguyên A Nhĩ Kim, tài nguyên khan hiếm, thiếu thốn đủ mọi đường, là một vùng đại thảo nguyên mênh mông không bờ không bến, người Ngột Thuật lấy chăn thả gia súc để sinh sống, mặc dù danh nghĩa phụ thuộc vào Vường triều Minh Hà, hàng năm có tiến công dê bò trâu ngựa, đổi lấy vật dụng sinh hoạt thiết yếu, nhưng hai mùa xuân thu cũng vượt biên cảnh cướp bóc.
Mùa thu năm 1361 thiên nguyên, đại thảo nguyên gặp một trận hạn hán trăm năm có một, đại hãn người Ngột Thuật vì sinh tồn của con dân mình, phát động chiến tranh, trận này đánh liền gần một năm, vốn ở biên cảnh có lão tướng quân Vương Xương Long tọa trấn, nhưng không ngờ ở trong một trận chiến lớn, Vương Xương Long bị một thiên tướng bên cạnh đánh lén bỏ mình.
Không lâu sau có tin truyền ra, viên thiên tướng đó là nội gián người Ngột Thuật gài vào hơn mười năm.
Hai quân giao chiến, chủ soái trận vong, không cần phải nói, quân đội Minh Hà tan vỡ, kết quả chưa tới một tháng, liền mất bảy tám thành trì, hai cứ điểm trọng yếu là Dương Bình Quan và Sơn Hải Quan bị bao vây, nguy trong sớm tối, may mà được nhi tử của Vương Xương Long là Vương Tích nguyên soái lộ quân thứ hai hợp sức với tứ đại gia tộc biên ải là Long - Hỏa – Phong - Vân cho nên mới ngăn được thế bại.
Vương Tích tới nơi, giương cờ trắng viết chữ bằng màu thề báo thù cho phụ thân, toàn quân đeo tang, phản công dữ dội.
Binh pháp có câu, ai binh bất bại, Vương Tích giao tranh liền mười mấy trận lớn, đều giành phần thắng, chiếm lại được năm tòa thành, từ đó trở đi, người Ngột Thuật đóng cửa không chịu ra nữa, hai quân Đường vào thế giằng co.
Thanh danh của nguyên soái Vương Tích vang vọng khắp thiên hạ.
Nay đã là cuối tháng chín, lúa ngoài đồng sắp chín, mùa đông trên đại thảo nguyên sắp tới, chỉ e biên cảnh lại lần nữa mịt mùi khói lửa.
Ngày 25 tháng 9 năm 1362 thiên nguyên , Đường Kính Chi tới vương triều Minh Hà được hơn 10 ngày, thời gian qua y ngủ trên ghế đu, quả nhiên sức khỏe tốt hơn nhiều, Đường lão thái quân tôn sùng đạo giáo, thấy sức khỏe cháu mình phục hồi, liền dẫn gia quyến dâng hương tạ ơn.
Giải thích về cách tính năm ở đây, hơn 1362 năm trước quốc gia lâu đời nhất trên đại lục nằm phía tây của Vương triều Minh Hà hiện này xuất hiện một vị vua kiệt suất, ông ta thống lĩnh đội kỵ binh giáp đen của mình tung hoành đại lục, không một thế lực, không sức mạnh nào có thể ngăn cản được ông ta, cuối cùng ông ta thống nhất được đại lục, lập nên đế chế rộng lớn, lấy năm đầu tiên của đế chế của ông ta là thiên nguyên, ngụ ý khởi đầu của triều đại ngàn năm.
Tất nhiên đế chế đó của ông ta không tồn tại được ngàn năm, nhưng cách tính lịch này vẫn duy trì tới tận bây giờ.
Lạc Thành giàu có, chỉ riêng trong thành có hơn ba mươi vạn nhân khẩu thường trú, giữa rặng núi nhấp nhô ngoài thành, có gần trăm toàn chùa miếu đạo quán lớn nhỏ, cao tăng đạo sĩ nổi danh không ít, trong đó có tòa Nhất Thanh Quan có hơn một trăm đạo sĩ, đáng kể nhất là Tử Vân đạo trưởng, nghe nói đạo pháp vô biên, chuyện nghìn năm trước không gì che dấu được ông ta, còn có thể bấm quẻ năm trăm năm sau, nên hương khác rất đông, những nhà đại phú đại quý thường tới nguyện bỏ khoản tiền lớn nhờ Tử Vân đạo trưởng gieo quẻ tính số.
Chỉ có điều Tử Vân đạo trưởng sau khi đạo pháp đại thành không tùy tiện tính số cho người khác, vạn sự chỉ cầu một chữ duyên.
Đó gọi là vô duyên sát vai chẳng quen biết, có duyên ngàn dặm cũng quen nhau! Tử Vân đạo trưởng giờ đây chỉ tính số cho người có duyên.
Trừ Tử Vân quan ra thì thanh danh lớn nhất là Phổ Quang tự, Phật gia chú trọng phổ độ chúng sinh, cho nên hương khách còn nhiều hơn cả ở Nhất Thanh quan, tới đây dâng hương có nhà quyền quý tới xin tước xin lộc gia tộc đời đời phồn vinh thịnh vượng, có bách tính bình dân, chỉ cầu Bồ Tát phù hộ cả đời bình an, không bệnh không tật là đủ.
Chủ trì của Phổ Quang tự là Hư Phù đại sư cũng là nhân vật đáng nể, từng nói mình tu trăm năm ngộ Phật pháp, sẽ hóa thân thành xá lị, thấu triệt đạo trời đất, có thể trả lời mọi câu hỏi trên đời.
Hư Phù đại sư cùng Tử Vân đạo trưởng được gọi là " thiên niên đạo tiên, bách niên phật đà!"
Nghe đồn đương kim hoàng đế khi mới lên ngôi căn cơ không vững từng tới hỏi ý kiến hai vị đạo tiên phật đà này, sau quay về không những ổn định được hoàng vị còn ngộ đạo thành vị vua hiền hiếm có của vương triều Minh Hà.
Tất nhiên chuyện này thực hư ra sao chỉ người trong cuộc mới hiểu, nhưng dân chúng đều tin chắc vào lời đồn đó, và thanh danh hai vị đạo tiên phật đà cũng là điều không cần bàn cãi.
Sáng sớm ngày hôm đó, các chủ tử của Đường gia từ sáng sớm tinh mơ đã thức giấc, ăn sáng xong lên xe ngựa, dẫn một đám đông hạ nhân rầm rộ tới Nhất Thanh quan.
Đây là lần đầu tiên Đường Kính Chi rời phủ, cho nên khó tránh khỏi tò mò, vén một khe nhỏ rèm xe lên nhìn qua ngó lại đường phố.
Thực ra Đường Kính Chi muốn cưỡi ngựa, như thế sẽ được nhìn ngắm rõ hơn, nhưng Đường lão thái quân lo y chưa khỏe hẳn, nói thế nào cũng không cho, vì thế chỉ đành ngồi cùng xe ngựa với Lâm Úc Hương.