Danh lợi tuy là vật ngoài thân, nhưng bạn cũng không thể cởi truồng mà chạy.
(Lời thì thầm trong đêm)
Trên núi không sống về đêm, Lê Dạ Quang đành phải đi ngủ lúc chín giờ tối. Sáng hôm sau tỉnh dậy, cô nhìn điện thoại di động thì thấy mới có 6 giờ 5 phút. Cô lăn lộn trên giường một lúc, đúng là số khổ, không được hưởng hạnh phúc, thế là dứt khoát ngồi dậy.
Vùng Tây Bắc có sự chênh lệch nhiệt độ trong ngày rất lớn, thậm chí nhiệt độ trên núi vào sáng sớm còn thấp hơn. Lê Dạ Quang không mang theo quần áo để thay, chỉ có thể quấn chặt chiếc áo khoác len quanh bộ đồ tây của mình. May mà cô đã mua một túi đồ lót trên máy bay, không thì thật sự phải “trở về với thiên nhiên” ở ngọn núi hoang sơ cằn cỗi này rồi.
Nói thật, đã rất lâu rồi Lê Dạ Quang không rảnh rỗi như này.
Đã thế lại còn là rảnh rỗi thụ động, sóng điện thoại còn không có chứ đừng nói đến wifi. Mùa xuân ở Tây Bắc đến muộn hơn rất nhiều so với phía Đông Nam thành phố C, trên đồi trọc cũng chẳng có phong cảnh gì để thưởng ngoạn, Lê Dạ Quang gần như là bị lưu đày.
Cô lấy điện thoại di động ra, mở tài liệu đã lưu trước đó đọc lại. Tài liệu viết rằng, Dư Mặc Nhiễm - người đứng đầu gia tộc họ Dư hiện tại, là truyền nhân đời thứ ba và là một chuyên gia phục chế tranh có tiếng, năm nay đã ngoài tám mươi. Còn truyền nhân đời thứ tư chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, tin tức về ông rất ít. Cháu trai duy nhất của Dư Mặc Nhiễm - Dư Bạch, là truyền nhân đời thứ năm. Thuở nhỏ, Dư Bạch đã đi theo Dư Mặc Nhiễm học vẽ và phục chế bích họa. Mười sáu tuổi, anh sang châu Âu để bồi dưỡng, từng sửa tranh ở Ấn Độ, Trung Đông và những nước khác. Sau khi về nước vào năm hai mươi tuổi, anh hoàn toàn ở ẩn trên núi, chỉ sửa những bức tranh trong hang đá ít ai lui tới, tính đến nay đã bảy năm.
Lê Dạ Quang thậm chí còn không có ý định tách rời xã hội bảy ngày, chứ đừng nói cô tách rời bảy năm.
Có người không thích thế giới phồn hoa, cam nguyện sống trong rừng núi hoang vu ư?
Lê Dạ Quang không tin, mười người ở ẩn thì chín người đều là kẻ thất bại, chỉ có kẻ không chấp nhận thất bại mới nói mình đã thấu rõ hồng trần, sống tốt thì ai chẳng muốn rong ruổi thiên hạ? Nếu có thể ngắm nhìn hết hoa ở Trường An trong một ngày, ai lại chọn cưỡi ngựa gầy đi trên con đường cổ trong gió Tây?
Huống hồ, Dư Bạch không phải là ếch ngồi đáy giếng, người đã nhìn thấy thế giới sao có thể không xôn xao trong lòng?
Thế nên cô tin rằng, Dư Bạch có điểm yếu và lịch sử đen tối gì đó không muốn ai biết, chỉ cần cô tìm ra điểm yếu này, thì sẽ có thể uy hiếp được anh, ép anh xuống núi.
Tuy không mấy quân tử, nhưng trong thế giới của Lê Dạ Quang, thành công vĩnh viễn không cần phải giải thích quá trình.
Dư Bạch luôn là người dậy sớm nhất, vì hôm qua Lê Dạ Quang đã tuyên bố hôm nay sẽ dạy bốn người kia chơi mạt chược, Dư Bạch nghĩ phục chế bích họa vốn là công việc của anh, miễn cưỡng nhờ họ giúp, mất tập trung sẽ dễ dàng mắc lỗi, nên anh lẳng lặng rời giường, không đánh thức những người khác.
Nhưng vừa mở cửa, anh đã thấy Lê Dạ Quang đang ngồi trầm tư trong sân, cô quấn chặt chiếc áo khoác len, đi tới đi lui một lát rồi lại ngồi xuống, sau đó hắt hơi một cái thật mạnh.
Dư Bạch xoay người trở vào phòng, lấy áo khoác, đi tới sau lưng cô nhưng lại không dám khoác cho cô, chỉ ho nhẹ một tiếng: “Sáng sớm nhiệt độ xuống thấp, tốt nhất không nên đi loanh quanh bên ngoài.”
Lê Dạ Quang xoay người lại, khoảnh khắc nhìn thấy Dư Bạch, mắt cô sáng lên, đây chẳng phải là người cô muốn bám đuôi sao? “Anh định đi đâu vậy?”
Dư Bạch không trả lời câu hỏi của cô mà hỏi tiếp: “Cô không mang theo quần áo dày tới đây sao?”
Lê Dạ Quang lắc đầu, Dư Bạch nhớ lại hôm qua đã nhìn thấy va li của cô, bên trong toàn là tài liệu, quả thật không có quần áo. Rõ ràng là anh không làm gì sai, nhưng lại không khỏi áy náy vì dáng vẻ bị lạnh của cô, giống như tất cả đều do anh không xuống núi mà ra vậy. Anh đưa áo khoác cho cô: “Vậy cô mặc cái này vào đi.”
Lê Dạ Quang nhận lấy áo khoác, nhìn ngó hai bên áo, áo mới tinh, lại còn rất sạch. Cô không khỏi mỉm cười: “Anh quả là một người thú vị, rõ ràng là có quần áo, sao cứ mặc mãi cái áo khoác cũ kỹ kia rồi đi giày bông?”
Nhớ lại “ấn tượng đầu tiên” mà mình để lại cho cô, Dư Bạch xấu hổ đỏ mặt. Anh vốn dễ đỏ mặt, như thể lúc nào Lê Dạ Quang cũng trêu chọc anh: “Trong hang rất lạnh, hơn nữa... quần áo cũ mặc quen, làm việc cũng dễ dàng hơn.”
Lê Dạ Quang mặc áo khoác vào, thân nhiệt lập tức tăng trở lại, nghe vậy thì hào hứng nói: “Anh đi sửa tranh sao? Tôi cũng muốn đi.”
“Cô á?” Dư Bạch ngạc nhiên nói: “Không phải cô muốn chơi mạt chược sao?” Chẳng lẽ cô ý thức được đánh bạc là sai trái, quyết định cải tà quy chính?
“Tôi không mang theo mạt chược, bốn người họ bảo hôm nay sẽ xuống núi đi chợ mua ít đồ.” Lê Dạ Quang cười tít mắt trả lời: “Nên sáng nay tôi rảnh.”
“...”
Lê Dạ Quang đã lên núi theo con đường mòn này một lần, nhưng còn chưa đi đến chùa hang đã gặp Dư Bạch. Đi dọc theo đường núi, thỉnh thoảng sẽ nhìn thấy một hai hang động bỏ hoang.
“Trên đó cũng là chùa Lư Xá Na sao?” Lê Dạ Quang tò mò hỏi.
“Ừ.” Dư Bạch đi trước, vừa đi vừa đá văng sỏi vụn trên đường, tránh cho Lê Dạ Quang đi phía sau giẫm phải, “Chùa Lư Xá Na được chia thành thượng điện và hạ điện. Thượng điện là chùa hang được xây trên vách đá, còn hạ điện chính là nơi chúng ta đang ở, có một chính điện.”
Lê Da Quang nghiêng đầu suy nghĩ một lúc: “Nhìn vị trí địa lý, chùa hang cũng được coi là con đường tơ lụa, sao hương khói lại tệ như vậy?” Cô ở đây hai ngày, chẳng thấy một bóng khách hành hương đến chính điện.
“Hồ chứa nước dưới chân núi được xây dựng từ thế kỷ trước, các làng lân cận bị di dời nên không còn ai ở đây. Hơn nữa, cơ cấu địa chất ở đây ẩm ướt, không thích hợp để xây hang động, nên chẳng còn bao nhiêu hang.” Dư Bạch nói rồi thở dài một hơi.
Sau khi rẽ vào một góc đường núi, Lê Dạ Quang liền thấy ngôi chùa hang mà Dư Bạch nhắc tới, nói là chùa chẳng qua chỉ là một công trình bằng gỗ đơn giản được xây dựng ở giữa bảy tám hang động dày đặc trên vách đá, mái hiên mỏng đã đổ nát từ lâu, đoán chừng còn không chịu nổi một trận mưa nhỏ.
Đi vào giữa hang động nơi Dư Bạch làm việc, Lê Dạ Quang mới hiểu ý nghĩa của câu “trong hang rất lạnh” của anh. Hang động cao bốn mét, rộng khoảng mười mét và sâu năm mét, vì quá cao so với mặt nước biển và thiếu ánh mặt trời quanh năm, nên cả hang động lạnh thấu xương, ít nhất là lạnh hơn mười độ so với bên ngoài.
Dư Bạch đặt lương khô và nước uống trên lưng xuống chiếc ghế dùng để ngồi nghỉ trong hang, sau đó leo lên giàn giáo một cách thành thạo.
Lê Dạ Quang khép chặt áo khoác đi một vòng quanh hang, đúng như lời Dư Bạch nói, các bức tượng đất trong hang đã mất hết tứ chi, hơn nửa số bích họa cũng bị bong tróc, chỉ còn lại bức bích họa khổng lồ trước giàn giáo được coi là nguyên vẹn.
Thời đại học cô học chuyên ngành lịch sử, có ba năm học thạc sĩ nghiên cứu về lịch sử nghệ thuật, nhưng nghệ thuật Phật giáo chỉ là môn phụ, đặc biệt là những ngôi chùa hang chưa được biết đến như chùa Lư Xá Na, đây là lần đầu tiên cô nghe nói đến.
Đức Phật trên bức bích họa đứng ở chính giữa, mỗi bên vẽ ba vị Bồ Tát. Khác với những bức tượng Phật mà Lê Dạ Quang đã từng thấy trước đây, áo cà sa trên người Đức Phật được vẽ hoa văn rất phức tạp. Vì bức tranh đã biến màu và bong tróc, nên rất khó để nhìn thấy những gì được vẽ...
Thứ mà Dư Bạch đang sửa chính là lớp đầu tiên của áo cà sa. Trên giàn giáo chẳng những có màu vẽ, bàn vẽ, cọ anh dùng để sửa tranh, mà còn có một cuốn sổ vẽ khổ tám để ở tầng dưới.
Lê Dạ Quang đi tới nhìn, sổ vẽ dùng mực đơn sắc phác thảo các nét vẽ của các bộ phận khác nhau trên bức bích họa, đường nét mượt mà và chính xác, chứng tỏ người vẽ dùng bút rất thành thạo, bút lực thâm hậu.
Một phần nội dung chính của môn lịch sử nghệ thuật mà Lê Dạ Quang theo học là giám định và thưởng thức các tác phẩm nghệ thuật, đây cũng là một trong những điều kiện cần để cô trở thành giám tuyển sau khi tốt nghiệp. Chỉ khi có gu thẩm mỹ nghệ thuật tốt thì bạn mới có thể chọn lọc được những tác phẩm xuất sắc và thông hiểu lịch sử nghệ thuật mới có thể phân tích rõ hơn nội hàm và ý nghĩa sâu sắc của tác phẩm. Cao Thiến thường nói, những người theo đuổi lý thuyết nghệ thuật chính là những “ký sinh trùng”, chỉ biết nói miệng chứ không biết thực hành.
Lúc này, Lê Dạ Quang thật sự cảm thấy mình giống như một “ký sinh trùng” bởi vì cổ tay của Dư Bạch đang lơ lửng trên không, nhưng lại không hề run rẩy khi cầm bút, mỗi lần vẽ đều rất tự tin, thành thạo. Nếu không phải đã vẽ chính xác những chỗ cần sửa ra sổ vẽ từ trước thì thật sự không thể hạ bút xuất thần như vậy.
Mặc dù học lịch sử nghệ thuật, nhưng bản thân Lê Dạ Quang không thích các nghệ thuật gia là nam, đặc biệt là họa sĩ nam. Đàn ông phải chơi thể thao, phải cơ bắp cuồn cuộn mới đúng, chứ cả ngày cầm bút vẽ thì thật sự có phần ẻo lả.
Nhưng Dư Bạch lại...
Không, giống, vậy!
Phục chế bích họa khác với vẽ tranh trên bàn, nhất là khi sửa tranh trực tiếp trong hang động, tranh ngang tầm mắt, Dư Bạch chỉ có thể quỳ một gối, vai và lưng mở rộng, hai tay giữ vuông góc với tường, bắp tay của anh săn chắc và cân đối, đặc biệt là sự tập trung trong mắt và khí chất ngây thơ của anh hòa quyện vào nhau tạo nên một sức hút khiến người ta không thể dời mắt.
Cảm thấy mặt mình nóng ran, Lê Dạ Quang liền giơ tay tự tát mình một cái.
Lê Dạ Quang, sao mày lại si mê một con chó cỏ chứ!
Trước giờ cô luôn xuống tay tàn nhẫn, cái tát này vang đến nỗi khiến Dư Bạch trên giàn giáo giật mình, cúi người hỏi cô: “Cô sao thế?”
Lê Dạ Quang lấy lại tinh thần, nghiêm túc nói: “Chán quá nên tôi đập ruồi ấy mà.”
Phục chế bích họa là một công việc tẻ nhạt, nhìn người khác phục chế dĩ nhiên càng tẻ nhạt hơn. Dư Bạch bất đắc dĩ nói: “Vậy cô có muốn ra ngoài đi dạo một lát không, đi bộ lên khoảng hai ba trăm mét có một tảng đá rất lớn, đứng trên đó thì điện thoại sẽ có tín hiệu...”
Vừa nghe điện thoại có thể có tín hiệu, Lê Dạ Quang lập tức phấn chấn, nhanh chân chạy ra ngoài.
Nhìn cô chạy đi, Dư Bạch khẽ cười, mặc dù anh không hiểu trong điện thoại di động có trò gì vui, không phải chỉ có trò rắn tham ăn và trò xếp gạch thôi sao?
Lê Dạ Quang tìm được nơi Dư Bạch nói đến, điện thoại của cô thật sự lên hai vạch sóng, cô vội vàng gọi cho Cao Thiến. Khi Cao Thiến đang ở nơi cách xa hơn hai nghìn cây số nghe thấy giọng của Lê Dạ Quang, cô ấy gần như rơi nước mắt.
“Dạ Quang! Cậu còn sống à! Cậu đã mất liên lạc hai ngày nay rồi!”
“Mình vẫn sống tốt!” Cảm thấy tín hiệu đứt quãng, Lê Dạ Quang chỉ tập trung vào điểm mấu chốt: “Mình tìm được Dư Bạch rồi, bây giờ cậu tìm người giúp mình, thám tử tư cũng được, văn phòng luật cũng được, điều tra từ lúc anh ta ra đời, học ở nhà trẻ nào, tè ra quần bao nhiêu lần ở nhà trẻ, dù thế nào tớ cũng phải tìm ra điểm yếu và lịch sử đen tối của anh ta!”
Cao Thiến ở đầu dây bên kia có phần khó hiểu: “Dạ Quang, không phải chúng ta đi nhờ anh ta giúp sao? Sao mình nghe giống như cậu đang muốn trả thù vậy...”
“Không là trợ thủ, thì là kẻ thù.” Lê Dạ Quang nghiến răng nói.
“Được rồi...”
“Hà Diễm còn hoạt động nhiều không?” Cô không yên tâm mà hỏi.
“À...” Cao Thiến ấp úng hồi lâu mới nói: “Sau khi cậu đi, cô ta xin nghỉ bệnh, mình tưởng là cô ta sợ quá hóa bệnh, ai ngờ cô ta nhân cơ hội đó đi đồn chuyện tranh bị mốc ra ngoài. Hôm qua có mấy nhà tài trợ đến bảo tàng, họ nói nếu không tổ chức triển lãm được, không thu được lợi nhuận thì sẽ yêu cầu bồi thường theo thỏa thuận.”
Nghe được tin này, Lê Dạ Quang không bất ngờ chút nào, quy luật của xã hội này là dựa vào người này để chà đạp người kia, sẽ không ai sẵn lòng chịu trách nhiệm về những người và những việc không liên quan đến mình, chứ đừng nói để bản thân chịu chút xíu tổn thất nào.
Cao Thiến nhỏ giọng bổ sung: “Còn có người của bảo tàng Thượng Hải đến nữa, họ nói nếu không mời được người của nhà họ Dư, họ sẽ kiện...” Cô ấy dừng một lúc mới nói tiếp: “... Cậu.”
Lê Dạ Quang là người phụ trách triển lãm và là người chịu trách nhiệm đầu tiên về triển lãm, tất cả thỏa thuận hợp đồng đều do cô ký tên, muốn kiện đúng là chỉ có thể kiện mình cô.
“Dư Bạch... thật sự khó mời đến vậy sao?” Vấn đề trước mắt đã lên tầm cao mới, Cao Thiến lo lắng hỏi: “Nếu anh ta từ chối thì phải làm sao?”
Còn có thể làm sao nữa? Nếu Dư Bạch không chịu xuống núi, buổi triển lãm sẽ bị hủy bỏ, khoản bồi thường khổng lồ và lệnh triệu tập của tòa án sẽ ập xuống đầu cô. À phải rồi, còn mọi thứ trong nhiều năm phấn đấu làm việc của cô nữa, cũng tan thành mây khói.
Dư Bạch...
Lê Dạ Quang cười tự giễu, chẳng lẽ người nhà họ Dư thật sự đều là khắc tinh của cô sao?
Sau khi cúp điện thoại của Cao Thiến, Lê Dạ Quang không có ý định quay trở lại hang động, nhân lúc điện thoại có tín hiệu, cô muốn tranh thủ tra cứu xem trong nhà họ Dư còn có đệ tử nào khác có thể thay thế không.
Một cơn gió rét thổi qua, Lê Dạ Quang xoa mũi vì lạnh, lúc này cũng đã gần trưa, sao nhiệt độ vẫn không tăng chút nào? Cô vô thức ngẩng đầu lên nhìn bầu trời, lúc lên núi trời vẫn trong xanh không một gợn mây, bây giờ lại đột nhiên âm u. Cách đó không xa, một đám mây đen bay thấp đang di chuyển về hướng này với tốc độ mắt thường có thể nhìn thấy được.
Theo kinh nghiệm của Lê Dạ Quang, ở Tây Bắc mà nhìn thấy mây đen thì chỉ có một lựa chọn đó là: nhanh chân chạy trốn.
Bởi dù là mưa sa hay lốc xoáy thì cô cũng không có thứ gì để che chắn.
Lê Dạ Quang còn chưa kịp chạy về hang động thì những hạt mưa lớn đã rơi xuống. Lúc cô ôm đầu chạy vào hang, những hạt mưa đã trộn lẫn những viên đá nhỏ, tạo nên tiếng lộp độp trên mái hiên của ngôi đền ngoài cửa hang.
“Thời tiết quái quỷ gì thế này!” Phàn nàn xong câu này, cô ngẩng đầu lên nhìn thì không thấy Dư Bạch đâu. Lê Dạ Quang không khỏi hốt hoảng, vội chạy ra dưới mái hiên nhìn dáo dác.
Giông bão kéo đến bất chợt là chuyện thường ở trên núi, vì vậy Dư Bạch đã chuẩn bị từ trước, trong mỗi hang động đều có bạt che, lúc này anh đang treo từng tấm bạt lên các hang động nhỏ bên cạnh trong trời mưa gió.
Nước mưa làm ướt quần áo và tóc anh, chảy cả xuống mặt, anh chỉ tiện tay lau đi rồi tiếp tục công việc của mình, căng bạt, treo lên, rồi dùng đá chèn vào các góc, mỗi lần lặp lại đều làm rất tỉ mỉ, giữ vững nguyên tắc và yêu cầu mà anh tin phụng.
Bầu trời u ám như ban đêm, trong mưa to gió lớn, anh giống như một chiến binh đơn độc, vung vũ khí duy nhất của mình, gắt gao giữ lấy từng tấc đất của thế giới mà anh muốn bảo vệ.
Lê Dạ Quang nhớ lại lòng hoang mang của mình vào sáng nay, nếu một ngày có thể nhìn thấy toàn bộ hoa ở Trường An, ai lại chọn cưỡi ngựa gầy đi trên con đường cổ trong gió Tây?
Tuy nhiên lúc này, cô lại nhớ đến một câu nói khác:
Con người nên sống cuộc sống của riêng mình và phải sống trong sạch.