Tạ Vụ Thanh nói là làm, ngày hôm nay, xe của Tạ gia và Đặng gia cùng xuất hiện trước cửa lớn.
Có điều sớm hơn hai canh giờ… mới bốn rưỡi sáng.
Hà Vị hiếm khi hứng thú, tìm một chiếc váy đỏ hồng đặt may vào năm ngoái. Phía trên là áo ngắn trắng bạc thêu viền chỉ đỏ, phía dưới là chiếc váy xếp li dài đỏ bạc, nhìn long trọng không khác gì ăn Tết.
Từ khi cô tốt nghiệp đến nay không mặc váy nữa, lúc đến thư phòng lớn phía đông viện khó tránh khỏi có chút hồi hộp, vừa bước vào phòng liền ngửi thấy mùi đàn hương lão sơn đặc trưng của chú hai. Trong làn khói mờ ảo, cô nhìn thấy Tạ Vụ Thanh đầu tiên.
Hôm nay Tạ Vụ Thanh không mặc quân phục, trên người anh là bộ tây trang màu xanh sẫm cùng áo choàng khoác ngoài. Bên cạnh chỗ ngồi của anh là một cái lò xông hương hình chim hạc, hạc tiên cao hơn nửa người đứng một chân, khói hương từ miệng hạc phun ra từng vòng thơm ngát.
Tạ Vụ Thanh ngồi giữa hương thơm say đắm lòng người, một tay nâng chén, một tay cầm nắp chun trà, nhẹ gạt mấy lá trà đang trôi nổi bên trong…
Đêm khuya thanh vắng, sắc trời tối tăm.
Anh vừa ngước mắt, giống như nhìn thấy tiên nữ hoá vào hình hài của một cô gái không biết đến từ triều đại nào, quay lưng về phía ánh trăng ngoài cửa sổ, từ sau bình phong vòng qua. Cô trập trùng trong làn hương, ống tay áo rộng rãi rũ xuống cổ tay, hai bàn tay đan chặt trong túi giữ nhiệt được làm từ lông chồn trắng, mũ áo choàng còn trên đầu chưa kịp tháo xuống.
Tạ Vụ Thanh cùng khuôn mặt nhỏ nhắn trong mũ áo chăm chú nhìn nhau mấy giây. Anh vừa cúi đầu cười, lại nâng tách trà bằng sứ trắng đã ngâm khoảng mười phút, nhấp một ngụm nếm thử.
Hiếm có dịp thấy cô mặc quần áo màu ấm thế này.
Hà Tri Hành dựa lên giường, đang kể với Đặng Nguyên Sơ mấy câu chuyện cũ trước khi hắn về nước, đều có liên quan đến Bộ Tài chính.
Năm ngoái khi chuẩn bị đại hôn, nội vụ phủ trước kia của triều Thanh không muốn đến Bộ Tài chính đòi tiền, cuối cùng khiêng mấy rương vàng bạc châu báu đến ngân hàng Hối Phong[1] để đổi. Chuyện này truyền ra ngoài, Bộ Tài chính bị mắng bất tài vô dụng, không thể không chi ngân sách để trong cung tổ chức hôn yến.
[1] Ngân hàng Hối Phong là ngân hàng có 100% vốn từ nước ngoài, thuộc tập đoàn tài chính đa quốc gia của Anh
Hà Tri Hành khẽ lắc đầu, thở dài: “Lại thêm một chuyện vì tiền triều mà giải quyết hậu quả”.
Đặng Nguyên Sơ cười, bất đắc dĩ nói: “Nếu bàn tới chuyện giải quyết hậu quả thì thật sự rất nhiều. Mấy ngày qua cháu đến Bộ Ngoại giao bàn chuyện về điều mục Canh Tý bồi khoản[2] cùng liên minh tám nước. Năm đó tám nước bọn họ thay nhau cướp bóc giết đoạt lấy thành Bắc Kinh, cháu còn chưa chào đời, giờ lại nói muốn giải quyết tốt hậu quả thì phải bồi thường tiền cho họ”, Đặng Nguyên Sơ cảm khái, “Đốt thành chúng ta, giết người chúng ta, còn muốn chúng ta đền tiền”.
[2] “Canh tý bồi khoản là một trong những điều khoản trong Hiệp ước Tân Sửu kí kết giữa nhà Thanh với đại diện 11 quốc gia sau phong trào Nghĩa Hoà Đoàn và sự kiện liên quân tám nước tấn công thành Bắc Kinh. Nội dung điều khoản này là “Trung Quốc phải bồi thường cho tất cả các quốc gia 450 triệu lượng bạc chiến phí, trả trong vòng 39 năm, lãi suất 4% một năm, trả bằng thuế quan và thuế muối của Trung Quốc.
“Còn đang bàn bạc sao?” Hà Tri Hành hơi bất ngờ, đây vốn là một khoản nợ cũ, là tiền nợ của triều Thanh.
Đặng Nguyên Sơ gật đầu: “Dù sao cũng phải nghĩ cách để đáp ứng ít nhất yêu cầu của họ, nhưng vẫn khiến họ chịu rút lui nhiều nhất. Còn gì ngoài cách hỗ trợ về giáo dục như giúp đỡ du học hay tu sửa trường học gì đó”.
“Chuyện này phải cảm ơn Lương đại nhân lúc trước”, Hà Tri Hành nói: “Tìm được bước đột phá cho nền giáo dục nước nhà”.
Cựu công sứ ở Mỹ – Lương đại nhân đã nỗ lực đàm phán với nước Mỹ, nghĩ ra cách để Mỹ dùng số tiền bồi thường dư thừa tài trợ cho giáo dục. Từ đó tìm được bước đột phá, mở ra cục diện đàm phán với các nước khác.
“Hiếm khi nghe người ta tự cảm ơn người của mình”, Hà Vị ngồi xuống, oán giận chú hai nói, “Ngược lại từng nghe người ta khen Dương đại nhân nhân từ, chịu chi tiền cho nền giáo dục nước ta”.
Ba người đàn ông không hẹn mà cười, trong tiếng cười mang theo sự bất đắc dĩ.
Thấy Hà Vị đã đến, bọn họ cũng không nói chuyện tiếp.
“Đi thôi”. Hà Tri Hành mỉm cười, để thanh niên bọn họ đi lễ hội. Tạ Vụ Thanh hơi cúi người, gật đầu chào tạm biệt Hà Tri Hành, cùng Đặng Nguyên Sơ một trước một sau rời khỏi thư phòng.
Hà Vị tiến lên hỏi chú hai: “Buổi tối ăn ở nhà, hay là ra ngoài đi ạ”.
“Tối nay không phải có tiệc của Hà gia và Triệu gia sao?” Hà Tri Hành cười tủm tỉm nhìn cô, “Phòng thứ chúng ta sao có thể vắng mặt được?”
Đây là nói đùa sao? Nhưng nhìn chú hai không giống nói đùa lắm.
“Bốn giờ về nhà, tối nay không thể đến trễ”. Hà Tri Hành nghiêm giọng quyết định.
“Muốn đi thật sao?” Cô không an tâm, hỏi xác nhận lại lần nữa.
Hà Tri Hành gật nhẹ đầu.
Hà Vị không rõ lý do. Có điều… nếu chú hai đã có hứng thì cô cũng không việc gì phải sợ, càng thêm sảng khoái đồng ý.
Hà Tri Hành ôm lò sưởi bằng đồng trong tay, nhìn bóng cô khuất dần sau cửa, ngược lại có chút suy tư nhìn về vị trí vừa nãy hai chàng trai ngồi nói chuyện với mình.
“Cả hai vị công tử ấy đều đang theo đuổi cô hai ạ”, Liên Phòng dịu giọng nói, “Cô hai không chọn được”.
“Chưa chắc là không chọn được”. Hà Tri Hành khẽ lắc đầu.
Hà Vị từ nhỏ đã là đứa trẻ hễ thích ăn món gì, dù cho biển hoá nương dâu, cũng chỉ ăn mãi một cái cửa hiệu, cắn mãi một cái tư vị không bỏ, trừ phi là món ăn hỏng rồi, không thể ăn được nữa, mới bằng lòng vứt đi.
Đối với đồ ăn là thế, đối với con người cũng không khác biệt. Những nỗi lo lắng do dự càng không xuất hiện trên người cô.
Cuối cùng ánh mắt Hà Tri Hành dừng lại chỗ trống bên cạnh lò xông hương hình chim hạc, hôm nay ngại vì có mặt công tử Đặng gia, ấy vậy mà chàng trai họ Tạ kia là người quen cũ nhưng từ đầu chí cuối không nói một lời, chỉ yên tĩnh ngồi thưởng trà…
Nếu không lầm thì chính là anh.
Nhà của chú hai Hà gia ở nội thành nên cách Ung Hoà Cung không xa lắm.
Lúc đến nơi, người xếp hàng đã nối đuôi nhau rất dài, không hề ít hơn so với hội chùa. Phó quan của hai người định thay họ đi nhận cháo, lại bị Hà Vị ngăn cản, cô bảo để Tạ Vụ Thanh và Đặng Nguyên Sơ tự mình đi, cầu phúc là cầu bình an, như thế mới thể hiện thành ý. Tạ Vụ Thanh vừa hỏi xong, nói phải hai giờ nữa mới chính thức phát cháo, không cho cô đi. “Để chúng ta đi lấy, bất quá cầu được may mắn”. Anh nói thế.
Mấy vị phó quan mắt thấy hai vị tướng quân không ngại phiền toái, theo lời cô hai Hà tự khoác áo của mình, đi thẳng vào trong dòng người kiên nhẫn xếp hàng chờ tới lượt, liền đối với vị tiểu thư Hà gia này thêm phần kính ngưỡng. Hà Vị cũng đuổi nhóm phó quan đi lấy cháo, nói khó có dịp đến đây, không bằng đi cầu bình an.
Chỉ có Lâm phó quan không bị xoay chuyển, luôn theo sau Hà Vị, dù cô nói gì cũng không chịu rời nửa bước.
Phía đông loé lên ánh sáng đỏ trắng đan xen. Hai vị công tử hoà vào đám người, từ xa nhìn lại chỉ thấy mờ mờ bóng dáng. Tay Hà Vị đặt trong túi giữ nhiệt bằng lông chồn trắng, kiên nhẫn đợi ở nơi vắng vẻ, sẵn tiện hỏi thăm Lâm phó quan: “Lâm phó quan”.
“Cô hai”.
“Lâm Văn Kim hẳn là tên giả của anh đúng không?” Cô nhẹ giọng hỏi, “Từ lúc bắt đầu đi theo… Tạ Khanh Hoài?”
Lâm phó quan trầm tư một lát, không ngờ đến chuyện này công tử cũng nói với cô: “Không phải, là bắt đầu từ Sơn Hải ạ”.
Sớm thế à. Cô thì thầm hỏi: “Vậy tên thật của anh là gì?”
“Tên chỉ có một chữ, Kiêu”.
Lâm Kiêu. Hà Vị nhẹ gật đầu.
Bắt đầu từ Sơn Hải, thậm chí còn sớm hơn. Bằng từng ấy chiến công, hắn có thể cầu một chức vị cao hơn, lại cam tâm tình nguyện đi theo Tạ Vụ Thanh làm một phó quan nhỏ nhoi, còn cùng anh trải qua hai lần đại kiếp sinh tử…
“Phó quan Lâm Kiêu”, cô kính trọng gật đầu với Lâm phó quan, “Hân hạnh”.
Lâm Kiêu ngẩn ra, hơi cúi đầu, nhẹ giọng nói: “Có thể quen biết cô hai, là vinh hạnh của ti chức”.
Cô nói khẽ trong gió: “Vì sao công tử các anh lại gầy như vậy?”
“Năm kia…” Ánh mắt Lâm Kiêu ảm đạm, “Trúng hai phát súng, có một chỗ bị đạn bắn trọng thương suýt nữa không qua khỏi, dưỡng đến bây giờ vẫn không hồi phục bình thường được”.
“Vậy mà anh ấy còn uống rượu với cà phê?”
“Cà phê uống ít, chỉ có rượu là nhiều. Chúng ta đều hiểu rõ, người thân bạn bè bên cạnh ngài ấy chết quá nhiều, chung quy tâm lý cần thứ gì đó có thể chống đỡ. Lúc say rượu có thể thả lỏng một chút, ngài ấy từng nói thế”, Lâm Kiêu dứt lời, lại thấp giọng, “Trước lúc vào kinh, công tử chỉ vừa mới bước xuống giường, liền vội vàng chạy tới đây, sợ bị người ta phát hiện mình trọng thương, nên cũng không mang theo bác sĩ bên người, mà những người như chúng tôi lại không đủ kiên nhẫn giúp ngài ấy điều trị, khiến vết thương cũng hồi phục chậm hơn”.
Hà Vị nhẹ gật đầu.
Tạ Vụ Thanh cùng Đặng Nguyên Sơ mỗi người bưng một bát cháo trở về, Hà Vị và Lâm Kiêu cũng biết ý không nói nữa.
“Chúng ta quay về ăn được không?” Lúc Tạ Vụ Thanh đưa bát cháo đến, cô liền nói, “Em không muốn ăn ở ngoài”.
Tạ Vụ Thanh không để ý, trực tiếp bảo người dọn đường quay về Hà phủ.
Lúc vào sân, họ đưa bát cháo cho Quân Khương dùng lửa nhỏ hâm lại.
Cô gọi chú Mậu đến mời ông lão trung y đang ở phòng khách ở phía đông viện. Ông lão này vốn là bạn già kiêm bác sĩ chủ trị nhiều năm của Hà Tri Hành, một mình cô độc. Bởi vì thân thể chú hai không tốt, nên Hà Vị từ sớm đã sai người tới nhà mời ông sang đây, ngoại trừ giúp Hà Tri Hành điều dưỡng cơ thể, mỗi tháng lão tiên sinh còn ở ngoài thành tổ chức bốc thuốc khám bệnh, tất cả tiền thuốc đều do Hà gia chi trả.
Vì nhiều năm giao tình nên Hà Vị tin tưởng ông giống như người nhà.
“Cháu có hai người bạn mới vào kinh không lâu, sợ khí hậu thay đổi quá lớn, phiền ông đến nhìn xem một chút, kê một phương thuốc điều dưỡng thân thể cho họ”, cô nói với lão tiên sinh trong thư phòng nhỏ, “Chỉ là thân phận hai người có chút đặc biệt, không thể để lộ chuyện khám bệnh ra ngoài”.
Ông lão cũng không nhiều lời khách sáo, nhắm mắt lại điều dưỡng khí tức, nhàn nhã tựa vào ghế: “Mời người đến đây đi”.
Lúc này Hà Vị mới sai người mời Tạ Vụ Thanh và Đặng Nguyên Sơ đến thư phòng.
Hai người họ đều nhận ra ý đồ của Hà Vị, Đặng Nguyên Sơ vô cùng vui vẻ phối hợp, ngồi xuống ghế, đặt cổ tay đến trước mặt người ta. Tạ Vụ Thanh lại trầm mặc ngồi cạnh, khi nghe ông lão bắt đầu nói về mấy tật xấu lớn nhỏ của Đặng Nguyên Sơ, anh tựa như nhớ ra gì đó, đột ngột rời khỏi chỗ ngồi. Hà Vị sửng sốt, chạy nhanh đuổi theo.
Tạ Vụ Thanh vốn định ra ngoài, lại bị Hà Vị nhanh hơn một bước chắn trước mái hiên.
Anh cảm thấy buồn cười, không nói gì.
Hà Vị tự mình đóng cửa ngoài, lại khép cửa trong.
Đẩy cửa đi vào, thư phòng nhỏ nằm ở phía đông, đang có ông lão trung y cùng Đặng Nguyên Sơ ngồi đó. Còn lại những người khác đã bị cô đuổi khéo ra ngoài từ lâu. Trước mắt ở ngoài hiên, ngoại trừ trái phải hai bên đặt hai cái giường, còn có một đôi bình cổ ngỗng bằng gốm men xanh da trời cắm mấy cành mai đỏ bên trong, không còn gì khác.
“Đây là người quen của nhà em”, cô nhẹ giọng nói, “Để ông ấy xem thử, không có vấn đề gì đâu”.
Thấy anh không đáp, giọng cô càng dịu hơn: “Em chỉ muốn để ông kê một đơn thuốc điều trị, người tới cũng tới rồi, ít nhất phải bắt mạch một cái đã chứ”.
Tạ Vụ Thanh cúi đầu nhìn cô, thấp giọng hỏi: “Anh có nói không cho khám sao?”
“…Anh không phải vội chạy ra ngoài để trốn à?”
Anh bị chọc đến bật cười, hỏi lại cô: “Anh chạy khi nào?”
Hà Vị mím môi, rũ mắt xuống, nhìn chằm chằm giày da của anh: “Vậy anh ra ngoài làm gì?”
“Nghĩ đến một chuyện, phải giao phó”.
Cô nghẹn họng hồi lâu, lẩm bẩm nói: “Anh đi đi”.
Tạ Vụ Thanh đứng trước mặt cúi đầu nhìn cô chăm chú. Cô không biết mình có nên mở cửa giúp anh hay vẫn để anh tự làm. Ngày thường cô rất nhanh nhạy, hôm nay đầu óc bị đình trệ. Làn váy đỏ xinh xắn nằm gần giày da anh, có thể tưởng tượng được hai người đứng gần đến mức nào… Cành mai mới cắt, đong đưa trong gió thoảng hương thơm, đứng lặng bên cạnh bình mai, dần dần bị mùi hương mê đắm lòng người.
“Không phải anh gấp đi sao?” Cô nhẹ giọng nói.
“Cũng không cần vội”. Anh đáp.
Mới vừa rồi vẫn còn rất gấp mà.
Tạ Vụ Thanh tiến gần thêm nửa bước, làn váy của cô bị động liền tản ra, rũ trên mặt giày da của anh, hoàn toàn che đậy.
Không thể gần hơn nữa.
“Bên ngoài… có người”.
Anh không trả lời.
“Bên trong cũng có người”, cô giống như nói cho bản thân nghe, cũng không nên để sắc đẹp che mờ lý trí, muốn làm nhưng không chịu tìm nơi vắng người, mà lại ở giữa hai cánh cửa không khoá, có thể bị người khác mở ra bất cứ lúc nào, “Em không khoá cửa”.
“Anh thấy rồi”. Anh đáp ngắn gọn.
Trước đây cô từng học ở trường nữ sinh, vì anh trai cô được giáo dục theo kiểu phương Tây nên cô cũng từng theo anh đến Nam Dương đọc sách hai năm. Lúc đó trong nước không có trường dành cho nam nữ, dù là thầy giáo dạy trường nữ sinh cũng đã đến tuổi xế chiều, mỗi lần lên lớp đều buông rèm, ngăn cách giữa thầy già với các nữ sinh trong lớp. Lần đầu tiên cô trải qua cảm giác học chung với nam sinh là ở Nam Dương, cũng là lần đầu nhìn thấy tình cảm mãnh liệt giữa hai bên nam nữ ngoài trường.
Cô thường thấy những đôi nam nữ đứng sát gần nhau, có vô vàn cơ hội ôm nhau nhưng lại không động đậy.
Người bạn cùng phòng từng nói với cô rằng, thật ra ôm hay không chẳng phải chuyện lớn lắm, quan trọng là lúc muốn ôm nhưng chưa ôm được, suy đoán tâm tư lẫn nhau, chờ đợi nhau rồi mài mòn kiên nhẫn của nhau.
…
Anh cúi đầu, nhìn thấy vành tai cô dần dần chuyển đỏ, hay nói đúng hơn là từ lúc anh đến gần liền bắt đầu ửng hồng.
Tiếng cười nói của các cô gái bên ngoài kéo họ về thực tại. Tạ Vụ Thanh dời bước trước tiên, anh mở cửa.
Hà Vị lập tức xoay người, quay lưng với anh chạy về thư phòng.
Vừa vào thư phòng cô liền ngồi xuống, cảm thấy cứ như bị con mèo Ba Tư gãi ngứa dưới lòng bàn chân, đứng ngồi khó yên, cô cúi đầu nhìn chân mình, chỉ có làn váy nhẹ nhàng lay động cọ qua cọ lại trên mu bàn chân… Rõ ràng cái gì cũng không làm, nhưng so với làm càng khiến lòng người nhộn nhạo.
Chờ Đặng Nguyên Sơ bắt mạch xong, Tạ Vụ Thanh mới chậm rãi quay về thư phòng, như thể chưa từng xảy ra chuyện gì, khi Đặng Nguyên Sơ hỏi anh đi đâu, anh chỉ trả lời: “Ra ngoài hóng gió một chút”.
Tôi hóng gió lạnh cả buổi sáng để xếp hàng lãnh cháo, chỉ vừa mới thấy ấm lên thì anh lại nói nóng trong người muốn hóng gió lạnh à? Đặng Nguyên Sơ nhịn lại lời muốn nói.
Ông lão trung y kê hai đơn thuốc, dựa theo trình tự thăm khám dùng hai chữ “ất”, “giáp” để phân biệt. Hà Vị tiễn người ra sân, ông lão thấp giọng dặn dò cô, vị thứ hai từng chịu không ít tổn thương trong ngoài, cần phải cẩn thận điều dưỡng, tốt nhất là mỗi tháng đến bắt mạch, tuỳ lúc thay đổi phương thuốc.
“Cũng không cần mỗi tháng đâu ạ, anh ấy rất nhanh sẽ đi”. Hà Vị thấp giọng đáp.
Chờ hai người Tạ Vụ Thanh đi rồi, cô mới nhớ đến phần cháo mùng 8 tháng Chạp lãnh hồi sáng còn đang để trong sương phòng hâm nóng.
Thật là có đầu mà không có đuôi, chỉ lo nghĩ đến chuyện bắt mạch.
Cô không biết tối nay Tạ Vụ Thanh có về lại khách sạn Lục Quốc không, dặn dò Quân Khương: “Chờ buổi tối chị về gọi hỏi anh ấy ở đâu rồi sai người đưa qua”.
Trước khi ra cửa, cô đến đông viện của chú hai chờ.
Hôm nay hiếm có dịp Hà Tri Hành bảo Liên Phòng chuẩn bị cho ông một bộ âu phục màu xám đậm, Liên Phòng đang chỉnh trang trong ngoài giúp ông, hai ngón tay vuốt nếp gấp trên cổ tay áo kiểm tra xem có bị hầm hay không. Sau cùng, Liên Phòng còn cố ý xếp một chiếc khăn màu xanh đậm nhét vào trong túi áo tây trang.
“Liên Phòng đỏ mặt rồi”. Quân Khương chờ bên cạnh nói với Hà Vị.
“Chú hai cũng được xem là người đẹp tuổi xế chiều, lúc chú còn tuổi đọc sách mới thật sự là mỹ cảnh học đường”, Hà Vị không nén được kiêu ngạo, nhẹ giọng kể, “Anh cả là quân tử như ngọc đúng không? Lúc chú hai vừa nhận anh về làm con thừa tự, mỗi khi dẫn anh ra ngoài, người ta hỏi đây là ai, nói là con trai của chú hai Hà, mấy người đó liền lắc đầu, còn không bằng được sáu bảy phần năm đó của chú”.
Hà Tri Hành mắt mờ nhưng tai rất thính, chỉ lắc đầu cười khổ, liếc nhìn các cô một cái.
Tiệc mở ở cửa trước Thái Phong Lâu.
Kể từ năm Đồng Trị, đây là nơi tổ chức đãi khách được các quan viên và thương nhân có tiếng yêu thích, những bữa tiệc trong giới lê viên[3] cũng thường được mở ở đây. Tuy lâu chỉ có hai tầng nhưng kiến trúc bên trong lại có càn khôn, phòng lớn phòng nhỏ có hơn trăm gian, phần đông dùng để đặt bàn đãi tiệc.
[3] Giới lê viên là một thuật ngữ dùng để chỉ những người trong giới hát xướng, kịch nói
Hà Vị nghĩ phụ nữ Hà gia vốn thích mặc váy áo lả lướt, không muốn để người khác hiểu lầm mình nhân nhượng bọn họ, cô cố ý thay một cái váy dài kiểu truyền thống bằng lụa sa-tanh màu xanh đậm thường mặc hằng ngày. Cô đi vào Thái Phong Lâu, cởi áo khoác ngoài ra, được Quân Khương đắp lên người một cái áo choàng nhung giữ ấm bằng lông chồn, chậm lại nửa bước theo sau Hà Tri Hành.
Chưa đi được nửa đường, cô cảm thấy kỳ lạ, hỏi Quân Khương bên cạnh: “Em có phát hiện hình như hôm nay có rất nhiều quan quân không?”
Các phe phái quân phiệt lớn nhỏ đều muốn nổi bật quyền thế của mình, quân trang cũng không cùng một loại. Quân phục của Tạ Vụ Thanh theo kiểu hộ quốc quân chủ lực phản Viên ngày xưa, mà quan quân mỗi tỉnh lại càng khác biệt.
“Lúc vào cửa không nhìn thấy à?” Hà Tri Hành đi phía trước, cười hỏi cô ở phía sau.
“Nhìn thấy gì ạ?”
“Thẻ bài đãi tiệc”. Hà Tri Hành đáp.
Bình thường khi tổ chức tiệc rượu, trong lâu đều phải trưng một tấm bảng đỏ chữ vàng ở trước huyền quan [4], viết rõ hôm nay có mấy nhà đã mấy bàn tiệc, chủ nhân tên họ là gì. Ngày thường cô còn để ý nhìn qua vài lần, hôm nay vì không muốn nhìn thấy tên Hà gia nên cũng bỏ qua.
[4] Huyền quan là khoảng trống phía trước nhà/quán sau khi vào cửa, ở Việt Nam hay gọi là thông hành hoặc một loại hành lang.
Không lẽ hôm nay còn có người khác thiết đãi sao?
“Một hội học sinh xuất thân từ trường sĩ quan, tên Đặng Nguyên Sơ đứng đầu, có lẽ là người đãi khách”. Hà Tri Hành lại nói.
Sao lại trùng hợp vậy?
“Sao lại trùng hợp vậy?” Chú hai giống như sờ tới mạch của cô, nói ra suy nghĩ trong lòng.
Hà Vị cố gắng tìm lời giải thích hợp lý: “Đặng Nguyên Sơ ở ngoài nhiều năm, trở về muốn tụ tập gặp mặt bạn bè cũ cũng là chuyện thường tình. Thái Phong Lâu lại là nơi tổ chức tiệc nổi tiếng, mời đến chỗ này cũng bình thường. Chỉ là… hơi trùng hợp một chút”.
Nói xong, cô bất giác nhìn sang hướng khác.
Chỗ đãi tiệc bên kia bị bình phong nối thành vách tường ngăn cách, ngoại trừ người bưng thức ăn, không ai thấy được chủ nhân bên trong.
Hà Tri Hành hơi dừng bước.
Cô thu lại tâm tư, nhìn thấy người đứng chờ bên ngoài phòng đãi tiệc của hai nhà Triệu – Hà, chính là Triệu Ứng Khác.
“Chú Hà”. Triệu Ứng Khác ôn hoà gọi.
Hà Tri Hành mỉm cười gật đầu một cái, để lại không gian cho hai người, tự mình vào trong.
Ở điểm này Hà Vị trước sau vẫn luôn cảm kích đại công tử Triệu gia, lúc nào hắn cũng giữ thái độ hoà nhã thích hợp đối với phòng thứ của Hà gia, bất kể bên trong bên ngoài, đều dùng thái độ của con cháu thể hiện sự cung kính với Hà Tri Hành. Cho nên cô đối với Triệu Ứng Khác từ đầu chí cuối vẫn rất lịch sự khách sáo.
“Lát sau có khi lại không vui bỏ đi, làm trò cười cho mọi người”, Triệu Ứng Khác thấp giọng nói, “Sợ ầm ĩ quá không gặp được cô, nên chờ trước ở đây, muốn nói…”
“Muốn nói ngày đó đã trách lầm tôi, giờ đã biết bản thân phạm sai lầm nên tới xin lỗi”. Hà Vị nhẹ giọng nói tiếp, “Là những lời này đúng không?”
Cô ngẩng đầu, để Triệu Ứng Khác nhìn thấy toàn bộ khuôn mặt mình cùng đôi mắt ánh lên ý cười: “Chúng ta quen biết nhau từ nhỏ, anh nên biết rõ, tôi là người không ghi thù trong lòng”.
Mối quan hệ giữa cô và Triệu Ứng Khác rất phức tạp. Hắn không chỉ là vị hôn phu mà anh trai đã phó thác cô, còn là người mang theo rất nhiều hồi ức trong quá khứ của Hà Vị… Hà Vị không muốn tối nay khi hai nhà đều ở đây lại cùng hắn trầm mặc nhìn nhau, sợ bị người khác trông thấy không biết còn bịa đặt thế nào.
Cô đang định tìm hai câu vô thưởng vô phạt nói qua chuyện.
Vừa muốn mở miệng, lại dừng… Cô nhác thấy bóng dáng Tạ Vụ Thanh.
Thân ảnh cao gầy của anh cách cô ít nhất cũng hai mươi ba mươi bước chân, xa đến mức cô căn bản không nhìn thấy sự biến hoá rất nhỏ trên mặt anh. Cô có cảm giác như mình ngẫu nhiên gặp lại tình cũ bên ngoài ngôi miếu hoang vắng, tán gẫu hai ba câu nhân tình thế thái còn trong sạch hơn cả ánh trăng, thế nhưng vì một đạo tia chớp bất ngờ xẹt ngang bầu trời mang theo mưa to tầm tã lạnh thấu tâm can, vừa về đến nhà cả người ướt đẫm dưới ánh đèn, nhìn thấy ý trung nhân của mình tựa vào mép giường nhìn chằm chằm… Là cái kiểu rõ ràng chưa làm gì cả, lại chột dạ phát sợ… cảm xúc phức tạp.