Sự Trả Thù Ngọt Ngào

Chương 16



Charity ngồi trên ghế trong phòng chờ với Augusta nằm cuộn tròn trong lòng. Cô bé vẫn thức, nhưng cô không đưa nó quay về phòng Công tước cùng những người khác. Cô bé cần nói lời từ biệt cha mình, để hiểu chuyện gì đang xảy ra, nhưng không cần thiết phải chứng kiến cái chết. Charity vuốt ve mái đầu đứa trẻ và thỉnh thoảng hôn lên trán nó.

Chồng cô là người đầu tiên ra khỏi phòng. Anh bước đến đứng ngay trước ghế và mắt anh gặp mắt cô. Trông anh xanh xao và mệt mỏi. Anh đã khóc, cô nghĩ. Cô lấy làm mừng vì anh đã khóc. Anh ngồi xổm xuống và đặt tay lên đầu Augusta.

“Ông ấy đi rồi,” anh nói với một giọng dịu dàng khiến mắt Charity rân rấn nước. “Ông đã ra đi thanh thản. Từ giờ trở đi ông sẽ được hạnh phúc. Ô

ng sẽ... ở bên mẹ.”

Augusta mở mắt, nhưng cô bé không nhúc nhích hay nói năng gì.

“Nhưng em vẫn sẽ được an toàn,” anh nói. “Anh sẽ luôn ở đây với em, cả anh Will và chị Claudia cùng hai cậu nhóc gần đó nữa. Chúng ta sẽ là một gia đình. Em biết không, anh đã từng bế em khi em còn nhỏ xíu. Anh là người đầu tiên bế em đấy. Anh không biết có thể yêu được ai nhiều như yêu em không. Anh đã phải ra đi ngay sau đó và vắng mặt trong một thời gian dài. Nhưng lúc nào anh cũng yêu em. Giờ anh đã về nhà rồi. Chúng ta là hai anh em, nhưng may thay anh đã đủ lớn để trông nom em và giữ cho em an toàn gần bằng cha chúng ta.”

Cô bé nhìn anh không nói gì, nhưng Charity có thể cảm thấy cô bé đã bớt căng thẳng. Trong mấy phút nữa nó sẽ ngủ được thôi.

“Công tước đã biết trước ông sẽ phải bỏ em lại,” Hầu tước tiếp tục, “nên ông đã gọi anh về nhà để thay ông chăm sóc em. Bởi vì ông yêu em, Augusta, và bởi vì ông yêu anh. Vì chúng ta là con của ông. Mọi thứ rồi sẽ ổn, em gái của anh. Giờ em có thể ngủ lại được rồi. Anh sẽ mang em về giường và chị Charity sẽ đi cùng chúng ta.” Anh nhìn cô và nhướng mày ra hiệu. Cô hiểu ngay và gật đầu. Chị ấy sẽ ở lại với em. Khi nào em thức, chị ấy sẽ ở đó để đưa em tới chỗ anh tới chỗ anh Will, chị Marianne hoặc anh Charles. Em đừng lo gì cả.”

Nhưng khi anh đứng lên, ông quản gia cũng từ phòng Công tước đi ra. Ông ta hắng giọng.

“Đức ngài..” ông ta mở miệng.

Charity thấy chồng mình sững người trước khi quay đầu lại.

“Bác sĩ muốn nói chuyện với ngài, thưa ngài,” ông quản gia nói.

“Bảo ông ấy hãy đợi năm phút,” Công tước Withingsby nói, “ta đưa cô Augusta về phòng trẻ đã.”

Anh nhấc đứa trẻ đang ngủ lơ mơ lên tay và đợi Charity đứng lên. Đến giờ cô mới nhớ ra, kể từ lúc giọng anh làm cô giật mình tỉnh dậy từ giấc ngủ sâu, là sáng nay họ định lên đường về London. Hôm nay là ngày kết thúc trò chơi, là khởi đầu của cuộc sống bình yên hạnh phúc bên gia đình mà cô đã mơ ước bấy lâu nay kể từ khi cha cô mất.

Nhưng hôm nay vẫn còn một vai nữa cô phải đóng - cũng không hẳn là một vai. Hôm nay Augusta cần cô. Còn sự kiện nào chấn động hơn cái chết của cha trong cuộc đời đứa trẻ. Hôm nay những mong muốn của Augusta quan trọng hơn bất cứ chuyện gì, và có lẽ không chỉ trong hôm nay. Phải có lý do nào đó cô bé mới quay sang tìm sự an ủi vỗ về ở cô chứ không phải ở Marianne hay Claudia.

Và Anthony cũng cần cô trong ngày hôm nay cũng như trong vài ngày tới. Anh đã mất cha trong hoàn cảnh khó khăn. Cô hy vọng rằng anh đã kịp nhận ra tình yêu của mình với cha trước khi quá muộn. Cô cũng hy vọng cha anh đã phần nào bày tỏ tình yêu thương của ông. Hai người họ mới ngốc nghếch làm sao, khăng khăng không chịu nhượng bộ cho đến phút cuối cùng và có lẽ qua cả phút cuối cùng. Nhưng vẻ mặt anh, và cả những giọt nước mắt, mách bảo cô rằng hai cha con đã hiểu được nhau trước khi bị chia lìa vĩnh viễn. Họ đã ở riêng với nhau trong đúng năm phút.

Anh cẩn thận đặt Augusta xuống giường, trong lúc cả bảo mẫu và gia sư của cô bé đứng ngập ngừng ngoài cửa. Bà bảo mẫu mắt đỏ hoe vì khóc - tin tức lan đi trong ngôi nhà lớn thật nhanh. Augusta đã ngủ. Anh đắp chăn cho nó, và Charity chợt nhớ ra anh cũng đắp chăn cho cô như thế mấy giờ trước rồi ôm lấy cô trong lúc cô chìm vào giấc ngủ mê mệt. Anh đứng thẳng lên và quay sang cô. Những người hầu đã biến mất.

“Em ở lại với con bé nhé?” anh đề nghị.

“Vâng,” cô đáp.

Trong giây phút bốc đồng, Charity dấn lên một bước và gạt một lọn tóc cong cong ra khỏi trán anh. Tức thì nó lại xòa xuống. Cô ôm lấy gương mặt anh trong hai bàn tay.

“Em rất tiếc,” cô thì thầm. “Em rất tiếc, Anthony.” Và cô kiễng chân hôn lên môi anh.

Anh đưa tay lên áp vào hai bàn tay cô, giữ chúng lại trên mặt mình một lúc, rồi hạ chúng xuống và siết nhẹ.

“Mọi người còn cần anh,” anh nói và rời khỏi phòng.

Chỉ sau khi anh đã đi và cô ngồi lại trong căn phòng yên ắng, ngắm đứa trẻ đang say ngủ, cô mới bắt đầu bị cảm giác tội lỗi khủng khiếp quấy nhiễu.

Thật là một ngày bận rộn và mệt mỏi chưa từng thấy, Anthony đã sống một mình trong tám năm và đã quen với những trách nhiệm, nhưng đột ngột thấy mình trở thành Công tước Withingsby chỉ ba ngày sau khi trở về Enfield, với hàng dãy người quay về phía anh chờ chỉ thị, bảo anh bị căng thẳng còn là nhẹ. Anh phải tổ chức đám tang, viết các thư từ, sắp xếp chỗ ở cho các vị khách từ xa đến dự lễ tang, tiếp nhận những lời chia buồn đến sớm, giải quyết những việc bình thường và không thể tránh khỏi trong nhà, cộng với công việc quản lý điền trang, đảm bảo với Bá tước Tillden và gia đình ông rằng tất nhiên họ được hoan nghênh ở lại - và vô số việc khác.

Còn phải đè nén nỗi đau buồn - của anh và của các em anh. Charles là người khó nguôi ngoai nhất. Anh thấy cậu ngồi cả buổi chiều trong nhà kính, úp mặt vào hai bàn tay thổn thức. Song không cần bỏ công an ủi cậu, đã có tiểu thư Marie Lucas ngồi cạnh, vỗ vỗ lưng cậu bằng bàn tay nhỏ bé còn tay kia nắm chặt khăn tay và chấm những giọt nước mắt trên má cAugusta, được giải phóng khỏi bà bảo mẫu và phòng học, ở bên Charity cả ngày. Nhưng cô bé đã leo ngay lên lòng anh ngồi khi anh được tạm nghỉ ngơi sau chuyến viếng thăm của vợ chồng ông mục sư.

“Anh sẽ ở lại với em thật chứ?” cô bé hỏi.

“Ừmm.” Anh vòng tay qua người nó.

“Và anh sẽ giống như papa thật chứ?” nó hỏi tiếp. “Giống như anh William đối với Anthony và Harry ấy?”

“Em muốn có papa không?” anh hỏi lại. “Hay em thích một ông anh lớn hơn?"

Cô bé trả lời không chút đắn đo. “Em muốn papa.”

“Thế thì anh sẽ là papa,” Anthony nói. Tâm trí anh vụt quay lại quãng đời anh đã sống và những quan điểm anh kiên quyết giữ cách đây mới một tuần. Nhưng cuộc sống đó đã chết. Anh chấp nhận thực tế. Đây không phái cái anh có thể chống lại. Thậm chí anh không chắc mình có muốn chống lại hay không. Có những sự thật quá rõ ràng để mà phủ nhận.

“Và chị Charity sẽ là mama của em chứ?” cô bé hỏi.

Anh nhắm mắt. Một đứa trẻ được bảo bọc kỹ lưỡng biết đối phó thế nào với những điều nghiệt ngã? Làm sao nó hiểu được đây?

“Em có muốn chị ấy làm mama không?”

“Jane, Louisa và Martine có chị Marianne,” cô bé nói, “còn Anthony và Harry có chị Claudia. Giờ em cũng có một người. Chị ấy là của em.”

“Chị ấy sẽ che chở em,” anh nói, hôn lên trán nó. “Chị ấy yêu em mà.”

“Vâng, em biết chứ. Chị ấy đã nói với em. Đức ngài cũng yêu em. Ông chưa bao giờ nói thế, nhưng chị Charity bảo rằng có những người không biết nói hoặc thể hiện điều đó ra, song như thế không có nghĩa là họ không cảm. Ông luôn luôn chăm sóc em và đưa anh về nhà để chăm sóc em sau khi ông ra đi. Sáng nay em đã thấy được ông có yêu em. Ông đã muốn em hôn ông. Mặt ông rất lạnh.”

“Ông yêu em, cưng ạ,” anh nói. “Em đã là cô con gái nhỏ của ông. Và giờ em là cô con gái nhỏ của anh.”

Anh tự hỏi cha anh đã dành bao nhiêu thời gian cho con bé, đứa trẻ đã khiến vợ ông phải chết. Anh đồ rằng không nhiều lắm. Con bé ghen tỵ với lũ trẻ nhà Will vì chúng có cha. Nhưng con bé sẽ không nhớ đến cha họ với niềm cay đắng nữa. Charity đã ngăn được điều đó.

Cuộc trò chuyện đến đó là chấm dứt. Còn bao nhiêu người và bao nhiêu công việc choán hết thời gian của anh đến tận sau bữa tối. Trong suốt bữa ăn, anh lơ đãng tự hỏi tại sao mọi người, trừ Augusta và vợ anh, có thể đặt tay lên bộ đồ tang nhanh đến vậy. Tất cả đều mặc đồ tang, còn Charity mặc một trong những chiếc váy nâu của mình, trông cô tồi tàn mà vẫn xinh đẹp. Người thợ may của Claudia, anh nghe được một đoạn trò chuyện trong bữa ăn, đang gấp rút may cho vợ anh một chiếc váy đen để mặc ngày mai.

Anh ngồi ở đầu bàn và nhìn lại mình. Một tuần đầy những biến động lớn lao. Chỉ mới vài ngày trước thôi anh còn cho rằng mình có thể trở về đây và hoàn toàn không bị tác động. Một phần trong anh, một phần nào đó sâu kín, đã biết rằng anh cần giữ Charity bên mình nếu anh định nắm lấy cơ hội giữ lại thân phận của mình. Chỉ có điều anh không hiểu - hoặc không chịu thừa nhận - thân phận ấy là gì. Anh không biết anh là ai. Giờ thì anh đã biết. Anh là Anthony Earheart, một phần không thể tách rời của gia đình này, kể cả trong tám năm tha hương.

Anh chưa bao giờ thoát khỏi họ. Thế mà lạ thay, vào cái ngày mọi sự tự do, mọi lựa chọn của anh đã tuột khỏi tầm tay, anh lại cảm thấy tự do hơn bao giờ hết. Mà không phải vì cha anh đã mất và không còn điều khiển anh được nữa. Gần như ngược lại. Chính vì giờ đây anh vừa là chính mình, vừa là con trai của ông. Cha anh, như anh đã nhận ra sáng nay, đã để anh tự do sống với cả hai thân phận đó. Cuối cùng ông đã dành tình yêu thương cho anh và để anh được tự do.

Nữ Công tước của con sẽ là người mẹ tốt và người vợ tốt. Con đã có sự lựa chọn may mắn. Các con sẽ yêu thương nhau.

Anthony nhìn xuống cui bàn chỗ vợ anh, nữ Công tước, đang chuyện trò thân mật với nữ Bá tước Tillden mắt hoe đỏ. Ô, đúng vậy. Nhưng cô phải được thuyết phục, chứ không phải ra lệnh. Nếu anh yêu cô - và chắc chắn là anh yêu cô rồi - thì anh phải trả tự do cho cô như đã hứa. Và anh buộc phải hy vọng rằng cô sẽ chọn ở lại bên anh theo ý muốn của cô, để làm vợ anh, để sinh những đứa con cho anh, để cùng san sẻ tình yêu với anh trong quãng đời còn lại của hai người.

Hy vọng của anh không phải không có cơ sở. Cô sở hữu sự ấm áp, quyến rũ, và nồng nàn yêu thương hơn bất cứ ai anh từng biết! Anh vẫn còn cảm thấy hơi ấm bàn tay cô ôm lấy gương mặt anh, cảm thấy nỗi xót xa sâu sắc dành cho anh trong mắt cô, và cả nụ hôn êm dịu cô đặt trên môi anh nữa. Không, hy vọng của anh là có căn cứ. Nhưng anh đã đánh mất sự tự tin ngạo mạn trong mấy ngày qua, cùng với một số thứ khác. Anh không có cách nào để chắc chắn về cô. Niềm hy vọng của anh rất cần được củng cố.

Rốt cuộc, sau bữa tối anh đã được tự do. Anh ngồi bên linh cữu cha, ông được liệm trên giường và nhìn như đang chìm trong giấc ngủ yên bình. Nhưng Will tới vỗ vai anh và bảo cậu sẽ trông cho anh một lát.

“Anh đi nghỉ đi, Tony,” cậu bảo. “Nom anh như sắp ngã gục đến nơi ấy.”

Công tước gật đầu và đứng dậy - và đột ngột ôm lấy em trai, cậu cũng ôm lại anh.

Anh được biết Augusta đã ngủ và bảo mẫu trông nom cô bé rất kỹ lưỡng. Nhưng Charity không ở trong phòng khách cùng những người khác. Mọi người cho anh hay cô đã ra ngoài đi dạo.

“Chị ấy không muốn ai đi cùng,” Charles nói, “dù em đã đề nghị. Anh Tony, trông chị ấy mệt mỏi lắm. Cả ngày hôm nay chị ấy đã chăm sóc Augusta rất chu đáo.”

“Nhưng chị ấy sẽ muốn anh ở bên,” Claudia mỉm cười nói. “Hôm nay chị ấy cứ lo lắng nhìn theo anh hoài. Và trông anh cũng mệt mỏi chẳng khác gì chị ấy. Em nhớ chị ấy có nói là sẽ tản bộ ngoài bờ hồ.”

“Đúng đấy,” Marianne lên tiếng. “Và quả thực chị ấy rất tốt với Augusta, anh Tony. Hẳn nhiên chị ấy có kinh nghiệm làm nữ gia sư mà.

Marianne đã bớt ác cảm, anh nghĩ khi ra khỏi nhà nhưng con bé không thể không chua thêm câu chế nhạo cuối cùng.

Anh tìm thấy vợ ngoài hồ. Buổi tối nay rất giống tối hôm qua, khác một điểm là cô khoác thêm chiếc khăn choàng trên vai. Cô đang ngồi bên bờ hồ, nhìn ra mặt nước lấp loáng ánh trăng. Anh ngồi xuống bên cạnh, nắm lấy một bàn tay cô, sau khi cô đã ngước lên và nhận ra anh.

“Mệt không?” anh hỏi.

“Một chút ạ.” Bất chấp bức tranh thanh bình xung quanh, cô không hề thoải mái chút nào.

“Tất cả những chuyện này đã quá sức em,” anh nói. “Tôi xin lỗi, nó không nằm trong hợp đồng của chúng ta, phải không?”

Nhưng người cô càng cứng lại. “Tất cả là lỗi của em," cô nói, giọng lặng lẽ.

“Gì cơ?” anh nghiêng đầu để nhìn vào mặt cô.

“Em đã giết ông ấy,” cô nói. “Ngài không thấy ư? Với tính sốt sắng muốn làm chuyên lớn lao, như ngài đã gọi. Em đã ép ông đến thư viện tối qua. Em đã ép ông vào một cuộc cãi vã cay đắng mà vô ích. Đó không phải việc của em. Đúng là giữa chúng ta chỉ có một hợp đồng. Thực chất em không phải vợ của ngài. Thực chất đây không phải gia đình em. Nhưng em vẫn cứ xen vào. Em đã làm ông ấy căng thẳng. Và mấy giờ sau ông đã chết.”

Lạy Chúa! “Không.” Anh siết lấy bàn tay cô. “Không, Charity. Không. Em không liên quan gì đến cái chết của ông. Tôi được gọi về đây bởi vì ông sắp chết. Hai ngày trước viên bác sĩ đã bảo tôi là ông có thể ra đi bất cứ lúc nào. Ông đã bị một cơn đau tim hiểm nghèo. Nó đã khiến ông không qua khỏi sáng sớm nay. Ông đã mất. Cái chết của ông không có can hệ gì đến em.”

“Bác sĩ đã khuyên ông phải nghỉ ngơi,” cô nói.

“Ông có bao giờ để các lời khuyên vào tai cô. “Ông biết mình sắp chết, Charity. Đó là lý do ông nén lòng kiêu hãnh xuống và gọi tôi về nhà. Nhưng ông không muốn chết trong yếu đuối. Ông muốn chết như cách ông đã sống, và mong muốn của ông đã thành sự thực. Không phải em dồn ông đến chỗ chết, mà em đã làm một điều tuyệt vời.”

“Em đã giết ông,” cô nhắc lại.

“Tôi đã nói với ông là tôi yêu ông,” anh nói, “lúc nào cũng yêu ông. Và dĩ nhiên tôi đã nói thật, dù tôi hoàn toàn không hiểu điều đó cho đến khi em buộc tôi phải đối diện với nó. Còn ông không nói yêu tôi, mà ông đã gọi tôi một tiếng con trai, đứa con ông yêu nhất. Ông còn đặt tay lên đầu tôi nữa, Charity. Có thể đấy chỉ là điều nhỏ nhặt, nhưng tôi không thể nói hết nó có ý nghĩa thế nào với tôi khi cảm thấy bàn tay ông ở đó. Ông cố gắng xoa đầu tôi nhưng ông quá yếu. Ông có nói to lên rằng ông yêu tôi cũng không làm tôi bị chấn động như cái chạm của bàn tay ông. Em đã khiến ông thừa nhận một điều gì đó với chính mình. Dường như đã là quá muộn với ông - với cả hai chúng tôi - nhưng rất may không phải vậy. Vì em đã để chúng tôi chạm trán tối qua. Em đã hành động rất đúng lúc.”

Charity nhìn ra xa mặt nước và không nói gì. Nhưng anh cảm thấy bàn tay cô trong tay anh đã bớt đi phần nào căng thẳng.

“Em biết không, ông đã đúng,” sau mấy phút im lặng Anthony nói tiếp. “Tôi yêu mẹ tôi và bực bội với bà. Tôi cảm thấy bắt buộc phải yêu bà. Bà hoàn toàn dựa dẫm vào tôi - thậm chí từ khi tôi chỉ là một chú bé. Khi bà qua đời tôi mới chỉ hai mươi tuổi. Bà sống không hạnh phúc. Bà đã kể tôi nghe về người đàn ông bà từng yêu và muốn lấy làm chồng. Bà kể bà đã bị ép phải lấy cha tôi như thế nào. Thậm chí bà còn kể ông dồn sự quan tâm lên bà ra sao mỗi khi bà không mang thai. Bà thường khóc nói với tôi rằng chẳng mấy chốc bà sẽ lại mang thai tiếp vì đêm nào ông cũng đến phòng bà.”

Anh dừng lại. Anh cảm thấy mình như kẻ phản bội khi nói ra chuyện này, thậm chí là nghĩ tới nó. Nhưng có lẽ anh cũng nợ cha mình một điều gì đó. “Ông đã đúng,” anh nói. “Bà không nên chất nỗi bất hạnh của mình lên con cái. Bà không nên nói với con trai những chuyện riêng tư trong cuộc hôn nhân của mình. Những giãi bày của bà, sự cần thiết phải an ủi bà, phải ghét bỏ ông, đã trở thành gánh nặng rất lớn đối với tôi. Mãi cho đến tối qua tôi mới nhận ra điều đó.”

“Mẹ ngài đòi hỏi quá nhiều tình yêu từ ngài,” vợ anh nói, “còn ngài lại đòi hỏi quá ít. Rủi thay chúng ta lại khó mà nhìn nhận cha mẹ mình như những người bình thường. Chúng ta trông chờ sự hoàn hảo ở họ. Cha ngài yêu mẹ ngài. Ông đã thế hiện điều đó rất rõ ràng vào tối qua.”

“Có lẽ trong cuộc hôn nhân của họ bà cũng có lỗi nhiều như ông,” anh nói. “Có khi còn hơn. Bà đã trừng phạt ông suốt thời gian họ bên nhau vì bị ép vào một cuộc hôn nhân sắp đặt. Bà không hề nỗ lực để thích ứng với nó. Em có nghĩ thế hay không?”

“Cẩn thận, đừng để những cảm xúc của ngài quay sang cực đoan,” cô nói. “Bà không hạnh phúc, Anthony. Và bất kể bà có nói gì với ngài, ngài cũng không biết được chuyện gì đã thực sự xảy ra trong chốn riêng tư của cha mẹ ngài. Không ai biết được trừ hai người họ, và cả hai đều đã đi xa.”

“Tôi nghĩ,” anh nói, “có khi bà đã cố tình tách bọn tôi khỏi ông. Tính cha tôi kín đáo và nghiêm khắc - tối qua ông đã nói - ông sẽ không bao giờ trả đũa bằng cách nói bất cứ điều gì chống lại bà. Ông chưa bao giờ làm thế. Vậy mà bà đã dạy chúng tôi sợ hãi và căm ghét ông, coi ông là người lạnh lùng tới tận tim gan.”

“Anthony,” cô nói, “ngài đã yêu bà. Ngài hãy nhớ ngài đã yêu bà. Bà đã sống một cuộc sống khó khăn. Với tất cả những đứa con đó, những mất mát đó.”

“Tôi tự hỏi,” anh trầm ngâm, “liệu em đã bao giờ lấy một thứ gì đó từ cuộc sống hay chưa? Hay em luôn là người trao tặng? Em đã tặng gia đình tôi những món quà khác thường.”

Nhưng cô giật tay khỏi tay anh và đứng bật dậy, phủi cỏ bám trên váy. “Tất nhiên em cũng lấy chứ,” cô trả lời. “Em sẽ lấy một ngôi nhà và một cỗ xe, cùng những người hầu và sáu nghìn bảng mỗi năm ở chỗ ngài từ nay trở đi, đổi lại việc chẳng làm gì ngoài hưởng thụ một cuộc sống an toàn sung sướng. Em không đợi nổi nữa rồi đây.”

Anh cũng đứng lên. “Em là vợ tôi,” anh nói. “Nội chuyện đó thôi cũng sẽ cho em một cuộc sống sung túc. Đó không phải trao đổi, mà là lẽ tự nhiên của hôn nhân.”

Cô lại đờ người và trở nên mệt mỏi thấy rõ. Không có thời gian để thuyết phục cô theo cách anh đã định khi những ngày khó khăn này qua đi, khi đám tang đã kết thúc.

“Em mệt rồi,” anh nói, “và tôi cũng vậy. Để tôi đưa em về giường.”

“Với ngài ư?” cô hỏi. “Giống như đêm qua?”

“Phải,” anh đáp, “nếu em muốn. Hoặc làm tình trước nếu em muốn. Như thế không phải là bất kính với cha tôi. Cuộc sống luôn cần được tái lập trước cái chết.”

“Ngài có một bờ vai êm ái,” cô nói, khẽ cười, “và vòng tay an toàn. Tối qua em đã ngủ rất ngon. Ngài cũng vậy. Vậy thì thêm một đêm nữa thôi, nếu ngài muốn.”

“Đi nào.” Anh choàng tay qua eo cô và cô tựa vào anh khi họ cất bước trở về nhà.

Nhưng rốt cuộc, khi đã ở trên giường, Họ làm tình với nhau trước khi ngủ, với sự ưng thuận không lời từ cả hai. Anh chưa bao giờ trải qua sự giao tiếp trong im lặng với bất cứ phụ nữ nào, nhưng với cô nó dường như rất chính xác. Họ yêu nhau chậm rãi, nồng nàn, sâu sắc. Cô thở dài thư giãn khi kết thúc, còn anh chôn sâu mình trong cô, và lần đầu tiên trong đời anh cố ý gieo hạt giống của mình vào cơ thể người phụ nữ mà anh ân ái.

***

Anh đã làm nguôi ngoai nỗi cắn rứt của cô. Nhưng còn một nỗi cắn rứt khác đỡ cồn cào hơn. Tuy nhiên, nó không phải thứ Charity có thể chia sẻ hay thậm chí nói ra thành lời, ngược lại là khác. Cảm giác tội lỗi của cô tăng lên hàng giờ, và dường như bất cứ cái gì cũng nhắc cô nhớ đến nó.

Em cứ tưởng chị là một kẻ đào mỏ.

Đó là xuất phát điểm. Cô là một kẻ đào mỏ. Cô đã phạm một tội xấu xa - ồ, không chỉ một. Chúng nhân lên với tốc độ đáng sợ. Cô đã đùa cợt với một trong những thể chế thiêng liêng nhất của nền văn minh. Cô đã làm lễ kết hôn và đã nhắc lại tất cả những lời thề hôn nhân, trong lúc biết rõ mình không có ý định giữ bất cứ lời thề nào. Cô đã làm thế vì tiền. Ồ, cô có thể cố lý luận rằng mình làm thế vì Phil, Penny và bọn trẻ. Nhưng nếu nói trắng ra, thì cô phải thừa nhận mình làm thế vì tiền.

Và cứ thế, một tội lỗi đã kéo theo hàng loạt trò lừa dối khác. Cha chồng cô đã đoán ra phần lớn sự thật, nhưng ông lại không biết đó chỉ là một cuộc hôn nhân tạm bợ. Có lẽ ông đã chết với niềm tin rằng không bao lâu nữa một người thừa kế mới của tước hiệu công tước sẽ ra đời. Có lẽ ông cũng chết trong niềm lạc quan rằng Augusta sẽ có cả cha và mẹ chăm sóc cho đến khi con bé trưởng thành.

Cô ghét phải nghĩ đến những lời dối trá đã nói với Augusta. Vào ngày Công tước qua đời cô đã nhận thấy con bé yêu cô. Chuyện xảy ra thật bất ngờ và chóng vánh. Augusta không muốn xa cô. Con bé chỉ rời cô ra một lúc để ở bên Anthony. Augusta có thể bị chấn thương tâm lý nặng nề khi sự thật bị vỡ lở.

Rồi đến Charles, người đối xử với cô bằng sự chân tình của một cậu em trai, Claudia và William nữa, cũng rất yêu mến cô, cả Marianne cũng bắt đầu cư xử một cách lịch sự với cô. Lũ trẻ của Marianne và Claudia mặt mũi luôn sáng bừng lên mỗi khi cô xuất hiện.

Charity thấy mình như một kẻ lừa đảo. Cô đúng là kẻ lừa đảo. Tất cả các gia nhân đều gọi cô là lệnh bà và cung kính với cô, còn những người hàng xóm đến chia buồn gọi cô bằng tước vị và nhìn cô với vẻ gần như kính sợ.

Cô là kẻ lừa đảo.

Cô là kẻ đào mỏ.

Từ khi bắt đầu thành thật với mình, cô đã phải thừa nhận mình là người có tội.

Cô chỉ có thể làm một việc. Nhận thức đó đã ngấm vào cô trong những ngày chuẩn bị cho đám tang, và cuối cùng đã định hình rõ ràng trong đầu. Một việc duy nhất. Nó không sửa được hết lỗi lầm - nhất là với Augusta. Nhưng nó sẽ chứng tỏ nỗi đau của cô đối với những gì cô đã làm. Một việc làm danh dự có thể trả lại sự yên bình cho lương tâm cô vào phút cuối.

Vào cuối buổi chiều sau đám tang, khi những vịra về gần hết, chỉ còn một số người ngồi lại trong phòng khách, khi Augusta sau một buổi sáng quá nhiều cảm xúc hỗn loạn đã ngủ thiếp đi trong phòng trẻ, Công tước thì cưỡi ngựa ra ngoài cùng William cho khuây khỏa, Charity đi bộ theo đường cái vào làng, chiếc va li nhỏ trên tay. Có một chuyến xe ngựa chở khách sắp rời quán trọ - cô đã hỏi thăm giờ xuất hành.

Cô sẽ về nhà - một mình. Cô đã để lại một lá thư cho chồng, nhưng không đề địa chỉ nơi mình đến. Nếu cô làm thế, thể nào anh cũng gửi tiền cho cô - sáu nghìn bảng mỗi năm. Nếu cô làm thế, anh sẽ sai thư ký đến để đảm bảo cô có một ngôi nhà phù hợp cùng tất cả những thứ đi kèm đã được đề cập trong hợp đồng. Anh sẽ khăng khăng thanh toán tất cả mọi thứ. Và có lẽ cô sẽ không thể phản đối. Có lẽ cô sẽ mềm lòng không cưỡng lại được.

Charity đã làm lễ cưới và đã thực hiện mọi bổn phận của hôn nhân trong thời gian nó diễn ra. Có thể cuối cùng cô sẽ tha thứ được cho mình vì trước khi kết hôn đã biết rõ mình sẽ thực hiện những bổn phận đó chỉ trong một thời gian ngắn. Nhưng cô sẽ không bao giờ sống thoái mái và thanh thản nếu cô nhận thù lao cho việc mình đã làm.

Hôn nhân không phải là công việc.

Hôn nhân là đặt hết tâm trí vào đó, để chăm sóc và để yêu thương. Hôn nhân là một sự cam kết.

Cô đã nghĩ anh sai khi nói cô là người chỉ biết cho đi chứ không nhận lại. Nhưng có lẽ rốt cuộc anh đã đúng. Cô không thể trở thành người nhận. Làm thế cô sẽ đánh mất linh hồn mình.

Có thể cuối cùng cô sẽ tha thứ cho bản thân.