Hazel ngồi trên một ngôi mộ xây bằng đá rộng và phẳng cùng với Cáo Nhỏ. Nàng và con cáo của nàng trông tựa như bức tượng cẩm thạch được tạc trên một ngôi mộ cổ. Đến cái nghĩa địa này sau khi vừa trải qua cảm giác kinh hoàng lạ lùng ở mỏ đá, nàng không khỏi bị tác động bởi một nỗi sợ hãi vô hình. Trên sườn đồi bị cơn dông vây bủa này, những cây thánh giá và bia đá toát lên vẻ hiên ngang khủng khiếp, cứ như thể chúng biết rằng mặc dầu gió mạnh hơn chúng, chúng vẫn mạnh hơn loài người; như thể chúng biết rằng toàn thế giới là một ngôi mộ của cái đẹp, và được tạo ra như một gian phòng tra tấn những kẻ yếu.
Nàng nhìn xuống những con chữ trên mộ chí. Đó là một của một người con gái trẻ.
“Ôi!” nàng lẩm bẩm, nhìn lên vòm xanh rộng mênh mông, trống trải và rắn như kim cương - “Ôi! Đừng để con chết trẻ như thế! Tại sao cô gái đó lại chết trẻ như thế chứ? Đừng bắt con chết trẻ như thế! Xin đừng!”
Và vòm trời rộng tiếp nhận lời cầu nguyện của nàng bằng vẻ trống trải và cứng rắn.
Nàng bỗng cảm thấy kinh hãi; nàng chạy khỏi ngôi mộ đó, vừa chạy vừa gọi tên Edward.
Và Edward có mặt ngay lập tức. Chàng đang mang bắp cải đến cho thỏ ăn.
“Có chuyện gì thế, bé con?”
“Chúng kìa!”
“Những ngôi mộ ư?”
“Phải. Chúng đáng sợ quá.”
Edward chỉ về phía cây kim tước mọc giữa một ngôi mộ, đang rung rinh trong gió.
“Đúng! Nhưng cô gái đã xuống mồ thì chưa lên. Chỉ có một cái cây non thôi. Em chắc chắn rằng cô ấy muốn chui ra khỏi mồ.”
Đúng lúc đó bạn của Edward, người sẽ làm chủ hôn cho họ, đến.
“Anh phải đi đây và anh đợi em vào nhé,” Edward thì thầm.
Chờ đợi trong cái nhà thờ ảm đạm, với những bức tường quét vôi trắng toát và những ô cửa sổ bị thường xuân che lấp một phần, tâm trí chàng thanh lọc khỏi mọi ý nghĩ, trừ những ý nghĩ không vị kỷ.
Mẹ chàng, lệt xệt trong chiếc váy tím, bước vào, và nghĩ trông chàng thật giống một bức tranh thánh; đối với bà, ví von như thế là một sự khen ngợi tột bậc. Anh trai của Martha đã có mặt, đang rung chuông, quả chuông phát ra âm thanh ngắn ngủi và yếu ớt đến nỗi nó khiến cho cái nhà thờ trắng toát này giống như một con cừu thiến đeo chuông bị lạc trên đồi.
Ông James cũng có mặt, cùng một số giáo dân, và có cả Martha, trong bộ váy in hoa đẹp nhất hoặc mặc vội vàng, với chiếc mũ mà anh trai cô tả là “có thể khiến một quả trứng cũng phải rớt nước mắt”.
Con gái ông James chơi một bản nhạc dạo giữa những tiếng cãi lộn từ bên ngoài vọng vào.
“Không có con, nó sẽ đơn độc!”
“Họ sẽ không thích đâu. Đó là một hành động báng bổ.”
Thế rồi cánh cửa bật mở, và Abel, toát mồ hôi, ý thức được tầm quan trọng của sự kiện đang diễn ra, dẫn Hazel đội vòng hoa linh lan héo rũ, đi vào. Ánh sáng xanh thấm đẫm khuôn mặt xanh xao không tự nhiên của nàng, và đôi mắt nàng, đôi mắt bị ám bởi một điều xui xẻo nào đó trong mảng tối của cuộc sống, nhìn về phía Edward như nhìn một vị cứu tinh.
Nàng có thể là một trong những cô dâu trong truyện cổ tích, hiện lên từ một cái hồ hoặc một dòng sông tựa như hồn ma, mang dòng máu thần thánh bí ẩn trong mạch máu, và tuột khỏi cái nắm tay của người tình trần tục, tan chảy như tuyết khi bị chạm vào. Nhìn nàng, Edward cảm thấy mình bị xâm chiếm bởi một nỗi sợ hãi không thể lý giải nổi. Chàng ước gì nàng không đẹp một cách lạ lùng đến vậy, ước gì mùi hương linh lan đừng quá đậm đến mức khiến người ta muốn xỉu, nhắc chàng nhớ đến những căn phòng có người chết.
Phải đến khi Hazel đi tới gần bục làm lễ giáo đoàn mới nhìn thấy Cáo Nhỏ, một hình hài nhỏ bé có bộ lông màu hung đỏ, chạy tung tăng theo chân Hazel - một phù dâu thấp kém nhưng giàu tình cảm.
Ông James xuất hiện, bước về phía bục làm lễ.
“Tôi sẽ tống cổ con vật đó đi,” ông ta nói; sau đó ông nhận thấy rằng Hazel đang dắt Cáo Nhỏ. Sự xúc phạm này rõ ràng là có chủ ý. “Một con vật,” ông nói, “không có phận sự gì ở nơi linh thiêng này.”
“Sao lại không?” Hazel hỏi.
“Bởi vì...” ông James nhận thấy mình không thể mở miệng nói tiếp được. “Bởi vì không được,” ông kết thúc một cách ầm ĩ. Ông đặt tay lên sợi dây thừng, nhưng Cáo Nhỏ đã sẵn sàng chiến đấu.
Người đồng nghiệp của Edward quay đi, lấy tay che miệng. Ông ta buộc phải dồn sự chú ý vào cây thường xuân ngoài cửa sổ trong khi cuộc cãi vã diễn ra.
“Bất cứ ai đã tạo ra ông,” Hazel nói, “thì cũng tạo ra Cáo Nhỏ. Ông sinh ra từ đâu thì Cáo Nhỏ cũng từ chỗ đấy mà ra. Ông là trợ tế, Cáo Nhỏ là phù dâu!”
“Nói thật ngu dốt,” ông James nói.
“Sao cô ngang bướng thế, Hazel!” bà Marston khốn khổ thầm nghĩ. Bà cảm thấy mình không bao giờ còn có thể ngẩng đầu lên được nữa. Giáo đoàn cười khúc khích. Những quả nho đen và những vật trang trí diềm váy khẽ rung rinh. “Thật chẳng ra làm sao cả!” bà nghĩ.
Rồi Edward cất tiếng nói. Giọng của chàng thể hiện sự sắc bén của uy quyền khiến ông James kinh ngạc.
“Hãy nghe lời Chúa dạy,” chàng nói. “ ‘Ta còn có những con chiên khác không thuộc đàn này; cả những chiên đó ta cũng sẽ mang về đàn.’ Con vật đó và chúng ta có chung một người chủ, James ạ.”
Im lặng. Người mục sư đến làm chủ hôn quay đầu lại nhìn Edward với vẻ kinh ngạc và thán phục, rồi các nghi thức được bắt đầu. Ngắn gọn và đơn giản, lễ cưới của họ diễn ra cảm động lạ thường.
Những bông hoa thủy tiên trên các bậu cửa sổ nhìn Hazel trong sự im lặng ngây thơ, những con mắt vàng khờ dại của chúng hao hao giống mắt Cáo Nhỏ và mắt của nàng. Mùi hương hoa mùa xuân phảng phất nỗi buồn bâng khuâng tràn ngập nơi diễn ra lễ cưới. Không có mùi hương nào quá buồn, quá nặng nề, như mùi hương linh lan, thủy tiên nở thành cụm như những bóng ma bên hàng rào mờ tối của khu vườn, tử đinh hương màu trắng chất đầy những giấc mơ xa xưa, và những bông păng xê khẽ gợi lại trạng thái sung sướng ngất ngây đầy bí ẩn đã trôi qua.
Edward cảm nhận được những mùi hương đó và chàng cảm thấy tâm trạng bị đè nặng. Niềm thương sâu sắc dành cho Hazel và những con vật đáng thương mà nàng mang theo trào dâng trong lòng chàng. Nỗi lo không thể bảo vệ được nàng và những con vật đó cứ lớn dần lên trong chàng. Sự yếu ớt sẽ bị đánh bại. Từ khi Hazel xuất hiện cùng với triết lý buồn bề trải nghiệm sống, chàng bắt đầu nhận ra sự thật.
Chàng ngước lên nhìn bầu trời xa xăm giống như cách Hazel đã nhìn.
“Chúa là tình yêu,” chàng tự nhủ.
Bầu trời xanh tiếp nhận niềm tin của chàng như đã tiếp nhận mối hoài nghi của Hazel trong sự im lặng hững hờ.
Bà Marston nhìn Edward chăm chú. Rồi bà viết vào cuốn sách thánh ca của bà mấy chữ: “Mem: Maltine; Edward.”
Lễ cưới kết thúc. Edward mỉm cười với mẹ khi chàng đi qua chỗ bà, và đương đầu với vẻ cau có của ông James bằng sự vui vẻ tôn quý của chàng.
Cáo Nhỏ, thậm chí thích ra ngoài hơn là ở trong phòng, chạy lăng xăng lên trước, và khi về đến nhà họ nghe thấy từ phía tủ đựng bát đĩa ở chân cầu thang vang lên bài ca mừng đám cưới của con mèo chột.
“Ôi, anh!” Hazel nhìn chiếc bánh cưới, nói bằng giọng run run, “Em chưa bao giờ nhìn thấy chiếc bánh nào như thế này!”
“Mẹ đã làm lớp kem phủ đầy bánh, em yêu ạ.”
Hazel chạy ngay tới chỗ bà Marston, choàng cả hai cánh tay mảnh khảnh của nàng quanh cổ bà, hôn bà đánh “chụt” một cái trong cao trào của cảm giác biết ơn.
“Ấy, ấy! Đừng ồn ào thế, con,” bà Marston nói. “Mẹ vui vì các con thích cái bánh đó.” Bà vừa mỉm cười vừa vuốt vuốt lớp váy lụa màu tím. Hazel đã được tha thứ.
“Nếu tôi mà biết bà có cái bánh to như thế này thì tôi đã mang một cái cưa thật to đến,” Abel nói một cách khôi hài.
Chỉ có ông James là lầm lì.
Cáo Nhỏ được phép vào nhà, đi loanh quanh trong phòng, khiến bà Marston rất khó chịu; mỗi lần Cáo Nhỏ đến gần, bà lại bật ra tiếng kêu nghèn nghẹn. Mặc dù phải chịu đựng không ít những bất tiện, mọi người vẫn có một bữa tiệc mừng vui vẻ kéo dài cho đến tận chập choạng tối.
Sau bữa trà Abel chơi đàn, và cứ mỗi khi lão chơi xong một khúc nhạc ông James lại làm ra vẻ kẻ cả, nói, “Rất hay!”’ cho tới khi Abel hỏi một cách thô lỗ, “Ông có biết chơi đàn không hả?”
Edward phải vội ứng cứu bằng cách mời ông James hút xì gà. Họ ngồi quanh lò sưởi, bởi vì trời về tối rất lạnh, chỉ có Abel là vẫn ngồi ở góc phòng gảy đàn say sưa. Lão cho rằng thật là lương thiện khi chơi đàn một cách cuồng nhiệt nhất sau một bữa trà như vậy.
Hạnh phúc nhưng bồn chồn, Hazel chơi với Cáo Nhỏ bên ô cửa sổ đang tối dần, thấp lè tè, có nhiều chấn song và bị choán chỗ bởi mấy thứ đồ nội thất yêu thích của bà Marston.
Edward đang cho bạn của chàng xem một tấm bản đồ địa hình.
Bà Marston uể oải kể về những con gà mái của bà - những con gà ấp trứng tốt, nuôi con tốt, thịt ngon - với ông James. Hazel, chơi với Cáo Nhỏ đã chán, đang quỳ trên chiếc trường kỷ ottoman hình tròn chính giữa đặt tấm thảm len, nhìn vẩn vơ ra ngoài cửa sổ.
Bỗng nàng kêu ré lên. Edward giật mình trước tiếng kêu của nàng.
“Có chuyện gì thế, em yêu?”
Hazel đã ngồi sụp xuống đệm, mặt nhợt nhạt, không nói lên lời; nhưng nàng hiểu mình phải lấy lại bình tĩnh.
“Ôi, anh ơi!” Hazel gọi, bật khóc và nhào tới chân Edward.
Chàng vội an úi nàng, mặt lộ vẻ băn khoăn.
Bà Marston gọi người mang đèn tới; các tấm rèm được kéo lên và căn phòng chìm trong ánh đèn màu nghệ tây đầy yên bình.
Ở bên ngoài, Reddin đứng đó, vẫn với bộ dạng như đêm trước, cúi đầu, bất động. Gã nhìn thấy Hazel, thấy nàng rút lui và biết nàng đã nhìn thấy gã. Khi những ô cửa sổ của ngôi nhà bỗng tràn ngập ánh sáng vàng, gã vội lùi lại như thể bị quất roi rồi chậm chạp bước xuống đồi. Gã đi vào trong rừng rồi lê bước quay trở lại cho đến khi đang đứng đối diện ngôi nhà ấy. Gã đứng nhìn khách khứa ra về, và sau đó nhìn Martha đi về căn nhà nhỏ của cô. Những ngọn đèn tỏa ra ánh sáng mông lung, chờn vờn. Gã nhìn thấy một bóng người đi lên gác.
Ở trong nhà, bà Marston, đã phải đương đầu với một đám cưới mà bà không biết phải đánh giá như thế nào, đành ý tứ nói lời chúc ngủ ngon và để cho đôi vợ chồng trẻ ở lại với nhau trong phòng khách. Họ ngồi đó một lát và Edward cố gắng để không ý thức được những gì mình đang bỏ lỡ. Cuối cùng chàng đứng dậy, thắp nến cho Hazel. Trước ngưỡng cửa phòng nàng, chàng vội vã chúc nàng ngủ ngon. Hazel dễ dàng chấp nhận sự sắp đặt này, một phần vì nàng đã ngủ ở căn phòng đó hai đêm rồi, một phần vì Edward chưa hề cho nàng thấy dù chỉ là thoáng qua cảm giác về sự say đắm nồng nàn.
Nhu cầu tự nhiên càng cao thì tính quan trọng của nó càng được cho là điều hiển nhiên. Edward quay gót, đi về phòng riêng của chàng.
Reddin đứng dưới tán thông đen, đếm những ngọn đèn trong nhà và khi nhận thấy có ba ngọn đèn, gã liền quay về nhà trong tâm trạng nhẹ nhõm. Nhưng khi đi qua những cánh đồng, gã nhớ đến dáng hình của Hazel tối hôm trước; nhớ cảnh nàng khiêu vũ như một chiếc lá; nàng thật mong manh và trẻ trung làm sao. Gã là người đàn ông luôn bị sự mỏng manh và yếu ớt làm cho phát điên. Hồi gã còn bé, khi mà cha mẹ gã còn giữ được chút uy thế, gã đã đánh vỡ một chiếc ly Vanetia cực kỳ quý chỉ vì gã không thể cưỡng nổi sự cám dỗ của việc miết tay lên chiếc ly. Cha gã đã đánh gã một trận nên thân, bởi vì cha gã là một kẻ ngốc, một kẻ luôn tin rằng sự trừng phạt về mặt thể xác có thể tác động đến tinh thần. Và ngay ngày hôm sau Reddin đã lại làm chuyện tương tự với một món đồ sứ mỏng manh khác.
Và giờ đây, khi gã nghĩ đến eo lưng uyển chuyển của Hazel, đôi mắt to vương nỗi sợ hãi và cổ tay mảnh dẻ của nàng, gã luôn miệng nguyền rủa cho tới khi những con chim te te thức giấc kêu eo éo xung quanh gã. Trong bóng tối dày đặc của cánh đồng hoang vắng gã có thể đã trở thành vị anh hùng của những hồn ma, xướng lên rành rọt bài ca của quỷ Xa tăng giữa dàn hợp xướng của những linh hồn sa đọa.
Cuộc tìm kiếm Hazel kéo dài, bắt đầu từ ý thích nhất thời, đã kết thúc trong say đắm. Nếu gã chưa bao giờ tìm kiếm nàng, chưa bao giờ nếm trải cảm giác thất bại, hoặc nếu gã tìm thấy nàng ngay lập tức, thì gã đã chẳng bao giờ khao khát nàng một cách mãnh liệt đến thế. Giờ đây, lần đầu tiên trong cuộc sống thiếu đam mê của mình, gã cảm nhận được một điều gì đó thật bí ẩn và khó chịu bắt đầu hòa vào khao khát của gã. Trên hết, cuộc sống không có nàng là sự khởi đầu của tuổi trung niên buồn chán, thiếu sinh khí. Gã co rúm người lại trước viễn cảnh đó. Gã bước đi một cách mệt mỏi, và trong nỗi đau mất mát gã dường như già đi trông thấy.
Cuộc sống có nàng là tuổi trẻ được kéo dài vô tận, sự sung mãn và hạnh phúc của thể chất và tinh thần. Gã bước đi trong tâm trạng ủ ê, tưởng tượng cảnh gã đáng ra sẽ bắt đầu lại từ đầu như thế nào, sẽ làm cho Undern trở nên bảnh chọe ra sao, sẽ làm việc chăm chỉ, sẽ cho các con - con của gã và Hazel - được ăn học tử tế, sẽ trở nên đứng đắn hơn.
Nhưng muộn rồi. Quá muộn rồi! Gã, kẻ đã điên cuồng sục sạo khắp vùng, đã để tuột mất nàng. Đứa con trai nhà Marston, kẻ chỉ việc yên vị trên ngọn núi của mình, đã nghiễm nhiên có được nàng.
“Thật không công bằng!” gã gầm lên, và trong cơn giận dữ nỗi buồn trong gã nhạt đi. Tất cả những ý nghĩ mơ hồ, đen tối và nhức nhối của hai đêm gần đây đã dần dần trở nên rõ ràng.
Gã không nguyền rủa cũng chẳng ủ ê nữa. Gã suy nghĩ hăng hái trong lúc bước đi. Khuôn mặt gã trông càng trở nên mạnh mẽ hơn - nó vốn chưa bao giờ là một khuôn mặt yếu ớt ngay cả trong hoàn cảnh tồi tệ nhất - và gã khoác lên mình cái vẻ của một người đàn ông không dễ đương đầu. Mối thù hận đầy cay cú đối với Edward chiếm hữu gã, cơn giận dữ ngấm ngầm với số phận, niềm quyết tâm giành lấy Hazel cho dù nàng có muốn hay không. Giờ đây gã đã có mục đích trong đời. Vessons ngạc nhiên trước vẻ nhanh nhẹn và uy quyền của ông chủ.
“Sáng sớm mai hãy làm cho tôi mấy cái bánh sandwich,” gã nói, “và lão sẽ phải đi tới chỗ đấu giá đấy. Tôi sẽ không đi đâu.”
“Làm sao tôi có thể đi được chứ? Ai sẽ xử lý đám pho mát này đây?”
“Quẳng chúng cho lợn ăn.”
“Ai sẽ gặp cái ông ở Farnley? Tôi sẽ không đi đâu!”
“Nếu lão dám hỗn xược như thế thì lão sẽ bị tống cổ khỏi đây đấy.”
“Ai sẽ gặp cái ông đó chứ?” Vessons hỏi với vẻ cáu kỉnh.
“Ông đó hả? Quỷ tha ma bắt hắn đi! Hãy đánh điện cho hắn ta.”
“Tôi sẽ phải mất hai giờ đồng hồ để đi đánh điện. Và việc đó tốn tiền đấy. Bữa trưa ở chỗ đấu giá cũng tốn tiền nữa.”
“Trời!” Reddin kêu lên bằng giọng tức giận cực độ, “Cầm lấy, đồ ngu!”
Gã quẳng ví tiền vào người Vessons.
“Ôi, ôi,” Vessons nghĩ, “mình phải chiều lòng ông chủ thôi. Ông ấy buồn bực vì cô ta đã đi lấy ông mục sư rồi. Cầu cho ông mục sư sống lâu muôn tuổi!” Andrew nói.