Sáng sớm hôm sau, trong khi con chim vẫn đang chìm trong giấc mơ còn đám chuột vẫn nằm cuộn tròn bất động, Hazel đã bị đánh thức bởi một tiếng gõ nơi cánh cửa sồi đồ sộ. Nàng chạy ra mở hé cửa, ghé mắt nhìn ra qua những lọn tóc như một con sóc nhìn qua đám lá mùa thu.
Vessons đứng đó chìa một cốc bia về phía nàng. Nhưng Hazel thuộc kiểu phụ nữ thích uống trà.
“Giá như có ấm nước đang sôi thì tốt biết mấy,” nàng nói vẻ bâng khuâng.
“Trà!” Vessons nói. “Chao ôi! Đàn bà thường nổi cơn tam bành sau khi uống trà! Tôi có buộc phải pha trà không nhỉ?”
“Giá như có ấm nước đang sôi thì tốt biết mấy.”
“Ấm nước! Dĩ nhiên đến giờ này thì phải có ấm nước đang sôi rồi. Nếu không thì làm thế nào lũ bê có được bữa ăn nhỉ?”
“Hừm, ông không cần phải gào lên như vậy. Ông đánh thức ông ta dậy đấy.”
Nỗi sợ hiển hiện trong mắt nàng, nỗi sợ ghê gớm và khó hiểu đối với chính bản thân nàng.
“Tôi phải đi khỏi đây!” nàng thì thầm.
“Phải! Cô phải đi,” Vessons nói, mừng vì chỉ một lần này thôi nhiệm vụ và sự phục tùng đi đôi với nhau.
“Tôi sẽ đưa cô về,” lão nói thêm. “Cô sống ở đâu?”
Nàng lưỡng lự.
“Cô không cần phải sợ đâu, cứ nói cho tôi biết đi,” Vessons nói. “Tôi sáu mươi tuổi rồi, và cô đối với tôi” – lão thăm dò khuôn mặt ửng đỏ của nàng với vẻ trầm tư – “chẳng hơn gì một con mèo hoang vô dụng,” lão kết luận.
Hazel nhăn mặt; nhưng nàng muốn có một lời hứa từ Vessons, vậy nên nàng không bắt bẻ.
“Ông sẽ không nói cho ông ta biết chứ?” nàng van nài.
“Tôi ư? Không bao giờ! Không con ngựa hoang nào, không con ngựa thuần chủng nào, không con ngựa đua nào, không con ngựa kéo nào, không con ngựa Suffolk nào moi được điều đó ở tôi!” Vessons nói một cách hung hồn, bởi vì lại một lần nữa lời đề nghị và tính cách của nó đi đôi với nhau. Lão không muốn có một người đàn bà ở Undern.
“Thôi được,” Hazel thì thầm qua khe cửa, “tôi sống ở Callow.”
“Gì cơ! Cái nơi khỉ ho cò gáy bị lãng quên từ đời tám hoánh ở bên kia núi ư?”
“Đúng! Nhưng nó không phải là nơi khỉ ho cò gáy bị quên lãng; nó tốt hơn nơi này. Ở đó chúng tôi có ong.”
“Chúng tôi cũng có ong.”
“Và nhạc nữa.”
“Nhạc ư? Nhạc làm gì? Nhạc có ăn được đâu.”
“Và cha tôi làm quan tài.”
“Thật vậy sao?” Vessons nói, cuối cùng cũng tỏ ra quan tâm. Sau đó lão sực nhớ tới danh dự của Undern. “Nhưng ở đó cô không có cây dâu tằm,” lão nói vẻ đắc thắng. “Thấy chưa! Ở đây tôi có!”
Lão lệnh khệnh đi xuống dưới nhà.
Lát sau Hazel cũng đi xuống, ngồi uống trà bên bếp lửa đỏ rực trong bếp, vừa uống vừa nhìn những cụm sương giá như những bông hoa nhẹ nhàng trôi khỏi cửa sổ như thể ai đó đã dùng một miếng bọt biển lau đi. Tuyết giống như những hạt đường lấm tấm dồn đống trên bậu cửa sổ, và khu vườn, những nếp nhà phụ, những cánh đồng, ao hồ, những đống rơm, tất cả đều mang một vẻ chói lọi, lóng lánh như thủy tinh.
“Đi đường nào nhỉ?” Hazel đứng trên bậc cửa, ngơ ngác hỏi. “Làm thế nào tôi tìm thấy đường bây giờ?”
“Cô sẽ không tìm thấy đâu.”
“Nhưng tôi phải tìm!”
“Cô nghĩ Andrew Vessons này sẽ để một người đàn bà lang thang trong tuyết khi mà ông ta có cả một đàn ngựa tốt ở trong chuồng ư?” Vessons nói bằng giọng kẻ cả. “Tôi sẽ đánh xe đưa cô về nhà.”
“Tôi rất biết ơn ông,” Hazel nói. “Nhưng liệu ông ta có phát hiện ra không?”
“Cô đừng lo. Nếu tôi để mặc cho ông ta ngủ thì ông ta sẽ ngủ tít cho đến tận trưa,” Andrew nói.
Họ đánh xe đi trong im lặng. Móng ngựa ngập sâu trong tuyết. Hazel ngoái đầu nhìn lại khi hừng đông thẫm đỏ ló dạng. Ngôi nhà đối diện với nàng bằng cái vẻ uy lực và kiên nhẫn của nó. Nàng có cảm thấy mình vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi nó. Nàng tự hỏi mình sẽ cảm thấy thế nào nếu Reddin bỗng nhiên xuất hiện bên cửa sổ phòng gã. Và một ao ước nhỏ nhoi mang hơi hướm phản bội bỗng nhen lên từ một nơi nào đó trong tim nàng. Nàng nhìn những ô cửa sổ và trút một tiếng thở dài. Nàng suýt nữa ước ao rằng lúc ấy Reddin đã thức dậy.
Nhưng nàng mau chóng quên đi tất cả trong niềm vui thích; bởi vì tuyết ánh lên lấp lánh, nhưng vết chân thỏ rừng và thỏ nhà tạo thành vệt, những dấu chân chim in thành hàng ngay ngắn, những vết chân sâu của cừu, tất cả khiến nàng bật cười trước sự thay đổi hướng đi đột ngột của những con vật, vì chúng chạy theo hình thòng lọng và những vòng tròn tựa như những bước đi điên rồ của một kẻ mộng du trước con mắt những người không biết cớ sao người đó lại đi như thế. Hành vi của Hazel cũng vậy; ai cũng thế cả thôi nếu như nhìn những hành vi mà không biết rõ nguyên do.
Bầy chim choi choi lượn vòng vòng, cất lên những tiến kêu chán chường, nhìn những bông tuyết mềm rơi không ngớt ngăn cách chúng với đồng cỏ xanh, buồn như những kẻ nhìn số phận kéo tấm mạng dày che giữa họ và cánh đồng của hy vọng và niềm vui.
Đến chân đồi Callow, Hazel xuống xe.
“Đừng bao giờ nói cho ông ta biết nhé,” nàng ngước lên nói.
“Không đời nào,” Vessons quả quyết.
Hazel lưỡng lự.
“Đừng bao giờ nói cho ông ta biết,” nàng nói thêm, “trừ khi ông ta hỏi quá nhiều và bất an quá đỗi.”
“Ông chủ có thể hỏi cho đến ngày tận thế,” Vessons nói, “và ông ấy có lẽ sẽ cảm thấy bất an như thể có mười nghìn con ma đang dạo chơi quanh Undern khi mặt trăng xuống thấp, nhưng tôi sẽ không bao giờ nói cho ông ấy biết đâu.”
Hazel thở dài, quay gót leo lên đồi.
“Một bà chủ ở Undern ư!” Andrew nói với con ngựa kéo khi lão đánh xe quay trở về. “Không, không, lão già này sẽ không nói ra đâu! Không đời nào.”
Một con chim ác là bay ra từ trong một khu rừng ven đường, nhìn lão với vẻ ghê tởm. Lão nhìn quanh như thể có ai đó đang cười khẩy khi thấy lão cứ lải nhải mãi điệp khúc, “Không, lão già này sẽ không bao giờ nói ra đâu! Không đời nào.”
“Hazel đâu?” Reddin hỏi.
“Không con ngựa hoang nào, không con ngựa thuần chủng nào, không con ngựa đua nào, không con ngựa kéo nào, không con ngựa Suffolk nào…” Vessons, người có phong cách được tích lũy dần theo thời gian và là người mà hễ đã nghĩ ra được một cụm từ hay ho thì y như sẽ khai thác nó cho đến chết giống như bất cứ nghệ sĩ nào nói.
“Ôi, ông say rồi, Vessons ạ!” ông chủ của lão nói.
“Không một con ngựa nào có thể moi được ở tôi,” Vessons nói nốt câu.
Reddin biết đó là sự thật, và cảm thấy khá vô vọng. Tuy nhiên, gã quyết tâm không bỏ cuộc cho tới khi tìm được Hazel.
Gã dò hỏi thông tin tại quán Vũ Khí Của Thợ Săn, nhưng Vessons đã có mặt ở đó trước gã, và vì thế gã được chào đón bởi sự ngu ngơ không biết gì hết của mọi người.
Vessons thuộc tầng lớp dân đen, Reddin thuộc tầng lớp địa chủ, vậy nên những người thường lui tới quán Vũ Khí Của Thợ Săn đứng về phía kẻ đối đầu với Reddin.
“Ông sẽ không cắn được một miếng táo nào nữa đâu,” Vessons nói bẳng giọng mãn nguyện, khi ông chủ của lão quay trở về với vẻ mặt thất vọng.
“Tôi không thể chịu nổi thái độ của lão hơn nữa, Vessons ạ,” gã nói vẻ tức tối.
“Vậy thì hãy đuổi việc tôi đi,” Vessons nói, lặp lại chiêu bài cũ rích của lão, và lại giành phần thắng.
Reddin có những sai lầm của tầng lớp mình, nhưng đuổi cổ một gia nhân già nua không phải là một trong những sai lầm đó. Vessons lợi dụng điều ấy, luôn nói và làm theo ý mình.