Mây dày rũ xuống, vụn tuyết lại bay tán loạn trong gió. Trần Trù dắt Ly Quán vào một tiệm mì xập xệ bên đường, gọi hai ba món nhắm, hai tô mì thịt dê. Khi thức ăn đươc bưng lên, Trần Trù mới sực nhớ: “A, không biết muội có ăn được mì này không nữa…”
Ly Quán khẽ cúi đầu sau làn khói trắng mờ mịt toả ra từ tô mì, thế nhưng khoé miệng đã cong lên: “Mì thơm thật.” Rồi cô nhấc đũa lên, gắp từng miếng thịt dê trong tô mình qua tô của Trần Trù.
Trần Trù không biết có phải là do cô không ăn được thịt hay không nên cũng không dám lắm lời hay từ chối. Gã nhìn đống thịt trong tô, trong lòng ấm áp như vừa được thắp lò sưởi.
Chủ tiệm là một cặp vợ chồng, ông chồng vừa làm xong đồ ăn thì bà vợ bưng lên, nhìn Trần Trù và Ly Quán cười tươi: “Khách quan và tiểu cô nương đây thật xứng đôi làm sao.”
Trần Trù xấu hổ một chặp, tính giải thích nhưng lại cảm thấy không ổn lắm, chỉ ậm ừ vài tiếng rồi lại trộm nhìn Ly Quán. Ly Quán vùi mặt vào trong làn khói trắng.
Ăn xong bữa cơm, tuyết cũng đã rơi hòm hòm. Cả hai ra khỏi tiệm cơm. Tranh thủ thời gian ăn cơm Trần Trù đã kịp lên dây cót tinh thần cho mình, gã lại bắt lấy cánh tay Ly Quán, kéo cô đi thẳng một mạch đến một quán trọ, thảy xuống vụn bạc nói: “Cho một phòng!”
Chưởng quỹ cười híp mắt nói: “Khách quan đến đúng lúc thật, quán tôi cũng chỉ còn lại một phòng thôi đấy.”
Đi theo tiểu nhị lên lầu, Trần Trù vẫn nắm lấy tay Ly Quán suốt không bỏ ra nhưng cũng không dám quay đầu lại nhìn. Tiểu nhị nhìn thấy ánh mắt bọn họ cũng không có gì kỳ quái, mở cửa phòng ra, khom người nói: “Xin mời khách quan, nếu có việc gì chỉ cần mở cửa hô một tiếng là được.”
Trần Trù cố ra vẻ bình tĩnh gật đầu, đi vào phòng đóng cửa lại, lúc này mới thả lỏng người, thả tay Ly Quán ra rồi mới dám quay lại nhìn cô: “Chuyện lúc nãy…muội, muội đừng hiểu lầm…ta dẫn muội đến đây hoàn toàn không có ý xấu nào đâu.”
Ly Quán vẫn cúi đầu, mặt Trần Trù nóng hừng hực, gã khẽ tằng hắng một tiếng, nói vu vơ: “Muội, muội ngồi xuống đi…muội uống gì không?”
Ly Quán khẽ lắc đầu.
Trần Trù lại lóng ngóng một hồi, rồi nói: “Ta…dù sao cũng nên kêu lên một bình trà.”
Ly Quán vẫn không gây nên bất cứ tiếng động nào.
Trần Trù lại gom hết can đảm giữ chặt hai vai của cô: “Ly Quán, kể từ giờ, muội sống với ta nhé?”
Gã cố không để lộ sự run rẩy qua giọng nói, nói một lèo: “Ta, ta nhất định sẽ đối tốt với muội, sẽ không để muội chịu cực khổ gì hết. Ta sẽ cố gắng đọc sách, ba năm sau sẽ thi đậu công danh. Cho dù không có công danh, ta, ta cũng sẽ tìm việc gì đó để làm. Tóm lại, tóm lại là, cho dù chỉ có một bát cơm, ta cũng không ăn, sẽ để nó cho muội!”
Hai vai của Ly Quán khẽ run: “Chỉ sợ…nô không xứng với sự tốt đẹp này của công tử.”
Trần Trù vội vàng nói: “Là ta không xứng với muội! Ta không tiền không công danh, ở với ta muội sẽ không được hưởng vinh hoa phú quý…”
Ly Quán nhẹ nhàng lắc đầu: “Vinh hoa gì chứ, phú quý gì chứ? Có áo để mặc, có cơm để ăn mới là tâm ổn thân an.”
Hai hốc mắt của Trần Trù thoáng chốc ậc nước. Ly Quán dịu dàng ngẩng đầu lên, hai mắt trong veo đẹp đẽ: “Huynh…chẳng lẽ huynh không muốn biết vì sao muội lại ở đây. Chẳng lẽ huynh không nghi ngờ rốt cuộc muội là…?”
Ta muốn, muốn chết ấy chứ!
Nhưng mà không thể nói thế được, nói ra rồi người trước mặt có thể sẽ biến mất không một dấu vết tựa như sương khói vậy.
Trần Trù nói chắc như đinh đóng cột: “Chuyện muội không muốn nói ta tuyệt đối sẽ không hỏi!”
Ly Quán nhìn chằm chằm gã: “Công tử thật sự có thể làm được sao? Huynh không sợ muội là…”
Trần Trù cắt ngang câu nói của cô: “Chỉ cần được ở cạnh muội, mấy chuyện khác đều không quan trọng!”
Ly Quán lại nhìn gã chằm chằm, Trần Trù cũng chăm chú nhìn lại cô, hai mắt đau rát cũng không dám chớp một cái. Lúc mí mắt sắp chịu không nổi rồi thì Ly Quán đột nhiên khẽ gật nhẹ một cái.
Trần Trù ngỡ bản thân bị hoa mắt, dụi mắt thật mạnh: “Muội, muội đồng ý rồi?”
Ly Quán cắn môi, khẽ cúi đầu, rồi lại gật nhẹ lần nữa.
Sau khi Đặng Tự thẩm án xong cũng không điều tra gì tiếp nữa, dặn dò mấy người trong huyện nha không được làm to chuyện rồi áp giải Đường Thư lại trực tiếp trở về Kinh Thành. Cao Tri phủ cũng cùng lúc kết thúc đợt tuần tra, trở về Châu phủ.
Thiệu Tri huyện quỳ tiễn hai vị đại thần lần lượt rời huyện nha, đứng dậy hồi lâu vẫn chưa hồi tỉnh lại được: “Vậy là xong chuyện rồi đấy hả?”
Lý Chủ bộ thở dài nói: “Ầy, đại nhân, xem ra tạm thời chúng ta không có việc gì nữa rồi.” Rồi cùng với Thiệu Tri huyện đồng loạt trộm nhìn Trương Bình đang đứng kế bên như cây cột.
Thiệu Tri huyện lau mồ hôi trán, nở cụ cười chân thành nhìn Trương Bình: “Trương đại nhân à, bản huyện thực sự vẫn còn mù mờ quá, rốt cuộc chuyện là thế nào vậy?”
Trương Bình đáp: “Hạ quan cũng chỉ biết chút đỉnh. Đặng đại nhân vi phục điều tra án có liên quan đến chuyện mưu phản, đã bắt được người tình nghi rồi.”
Lý Chủ bộ nói: “Trương đại nhân, có phải ngài sớm đã biết vị đó là Đặng đại nhân? Sao lại không thông báo một tiếng chứ! Đã thất lễ với đại nhân rồi, phải sống sao đây hả? đây chẳng phải là khiến Huyện Nghi Bình bị trách cứ sao?”
Trương Bình đáp: “Đặng đại nhân có lệnh, hạ quan cũng không tiện để lộ tin tức.” Rồi bày ra điệu bộ cụp mắt ngàn năm như một khiến răng của Thiệu Tri huyện và Lý Chủ bộ ngứa râm ran không thôi.
Lý Chủ bộ cũng đành chịu, nói: “Trương đại nhân, bất kỳ việc gì cũng có biến, mọi người đều ở cùng một huyện nha, đã là đồng liêu rồi thì phải giống với mọi người. Làm việc không tốt, cả đám chúng ta đều bị triển trách, có đúng không?”
Thiệu Tri huyện chặn lời lại: “Cũng không thể nói thế được, Trương đại nhân làm việc theo quy tắc, hết sức đáng được tuyên dương. Nhờ có thế mà Đặng đại nhân mới có thể phá án thần tốc như thế!”
Trương Bình cúi người nói: “Đa tạ đại nhân thông cảm, nếu như không có dặn dò nào khác thì hạ quan xin được đi làm việc trước.”
Thiệu Tri huyện nói giọng ưu ái: “Đi đi, đi đi, mấy ngày này không được nghỉ ngơi tốt rồi. Hôm nay có thể nghỉ sớm một canh giờ.”
Trương Bình hành lễ rồi lui ra, mấy người khác nhìn hắn rời đi. Lý Chủ bộ thở dài một cái: “Trương đại nhân quả nhiên không giống với chúng ta nhỉ. Đúng rồi, người thanh niên cùng đồng hành với Đặng đại nhân, hóa ra chính là cháu ruột của Tiên Liễu lão Thái phó, là trạng nguyên năm nay Liễu Đồng Ỷ, đồng khoa với Trương đại nhân, xem ra giao tình không tệ nhỉ.”
Những người có mặt đều không nói gì. Trong vụ án này, rõ ràng tất cả mọi người đều ngồi chung một thuyền, vậy mà chỗ ngon đều bị một mình Trương Bình chiếm hết cả. Đặc biệt là mấy nha sai đã từng lôi lôi kéo kéo Đặng Tự, lòng càng rầu rĩ không thôi, lại nghĩ đến chuyện Trương Bình vốn biết rõ nội tình, trong bụng lại càng thêm nhạt thếch.
Chỉ có mình Lưu Thư lại và Triệu Thư lại than thở: “Chỉ cần giữ được cái mạng này là tốt lắm rồi. Không nên nghĩ nhiều đến chuyện khác làm gì.” – “Cần gì phải hỏi nhiều, chỉ cần cầu bình an thôi.”
Mọi người lại an ủi hai người họ chập nữa, tất cả đều không hiểu sao Đường Thư lại lại dính dáng đến chuyện mưu phản nhưng cũng không ai dám nhắc đến, lát sau thì tản đi hết.
Những người bị Cao Tri phủ tống vào đại lao đều được thả ra hết cả. Chỉ riêng mấy kẻ lúc Đặng Tự vi phục điều tra dòm ngó đến thì bị Cao Tri phủ tạm thời áp giải về Châu Phủ. Đặng Tự và Cao Tri phủ đã thoả thuận với nhau, vụ án này nhất định phải giữ kín, thế nhưng trên đời này làm gì có tường nào kín gió, tình tiết tạo phản chẳng mấy chốc đã truyền ra ngoài. Mấy kẻ được thả ra ngoài đều âm thầm vui mừng vì nhặt lại được cái mạng còm nên không dám nghĩ nhiều hay làm chuyện lung tung nữa. Người dân trong huyện đều chỉ thầm thì bàn luận với nhau chuyện này chứ chẳng ai dám lên tiếng cả.
Là kẻ nào tạo phản? Sao lại tạo phản trong huyện Nghi Bình chứ? Triều đình sao tra được thế nhỉ? Mấy kẻ bị bắt kia đa phần đều là hàng xóm láng giềng gặp gỡ hàng ngày, sao có thể là phản tặc được chứ?
Ai nấy đều muốn biết, ai nấy cũng đều có kiến giải riêng.
Đủ loại phỏng đoán và đường dây tin tức bát nháo loạn xị cả lên, thậm chí đến cả mấy tin nhảm như “Hồ ly tinh của Cô Gia Trang tác oai tác quái” cũng xuất hiện.
Đặng Tự cũng trở thành cái tên thường được nhắc đến nhất trong các buổi cà kê dê ngỗng của bà con Nghi Bình.
Đặng Tự trong bản triều, vốn đã có danh tiếng và uy tín vô cùng lẫy lừng, có thể nói đã thành truyền thuyết.
Xuất thân phố chợ, từng có tuổi thơ dữ dội, trộm cắp đánh lộn trấn lột bài bạc hầu như đều kinh qua cả. Thế nhưng ông lại là đứa con có hiếu, vì để trị bệnh cho mẹ goá nên đã bán thân đi sung quân quan ải thay cho thiếu gia một gia đình giàu có, từ tên tiểu tốt đã lăn lộn đến chức bách phu trưởng. Đô thống ghen ghét tài năng của ông nên đã phái ông đi thăm dò thành trì của địch nhưng lại cố tình không cung cấp viện trợ bên ngoài. Thế nhưng Đặng Tự lại nghĩ ra được kế giết chết thành chủ, đem hơn phân nửa anh em an toàn rút lui, còn tiện tay cứu về phụ nữ trẻ em bị bắt cóc. Được Tiên Hoài Vương trong tay nắm giữ binh mã đại quyền lúc đó đang ở biên cương để mắt đến, nhận làm thuộc hạ. Nhưng không may thay, chưa đến hai năm sau thì Tiên Hoài Vương qua đời, chủ soái đổi chủ, vị chủ soái mới vốn bất hoà chính kiến với Tiên Hoài Vương, lại kiêng dè công lao của Đặng Tự nên gọi ông về lại Kinh Thành, thăng chức cho ông, làm một chức quan nhàn hạ trong bộ Binh.
Trong bụng Đặng Tự vốn chẳng có bao nhiêu chữ nghĩa, thế nhưng công việc mới lại có liên quan đến văn thư, cứ nhiều lần phạm lỗi, bậc quan giảm rồi lại giảm. May thay bộ Binh Thị lang lúc đó là Trình Bách vốn cũng là thuộc hạ của Tiên Hoài Vương, giao tình rất tốt, luôn cố gắng bảo vệ để ông không bị tước chức quan. Về sau có một lần ông lại phạm lỗi, Trình Bách bao che ông nhưng bị kẻ khác vạch tội, Đặng Tự tự mình đi thỉnh tội, nói không còn mặt mũi nào tiếp tục ở lại bộ Binh nữa, đúng lúc đó Đại lý tự đang thiếu ngục thừa, thế là điều ông qua đó. Trong lúc canh đại lao, ông lại phát hiện ra trong đám phạm nhân có một người có thể bị oan, nên đã báo lên Đại lý Tự khanh.
Đại lý Tự khanh lúc bấy giờ là Lý Nguyệt, nhạc phụ quá cố của Hoài Vương điện hạ, hiền thần danh tiếng lẫy lừng trong triều. Lý Nguyệt không những không trách tội Đặng Tự vượt quá bổn phận báo án, mà còn dựa vào những lý lẽ của ông để tái điều tra vụ án, quả nhiên đã phát hiện ra lỗ hở của vụ án này, tìm ra hung thủ thật sự. Lý Nguyệt vì thế mà tán dương Đặng Tự có tài, thăng chức cho ông từ ngục thừa lên làm bình sự. Đặng Tự quả không phụ lời khen ngợi của Lý Nguyệt, nhiều lần tìm ra điểm đáng ngờ của các vụ án, giúp Đại lý tự phá được không biết bao nhiêu kỳ án. Chưa đến mấy năm đã được thăng làm Đại lý tự Đoạn thừa. Sau đó, Lý Nguyệt chuyển sang làm Trung thư lệnh, trước khi rời khỏi Đại lý tự đã đề bạt Đặng Tự lên làm Đại lý Tự chính. Có người tố Đặng Tự thất học chữ ít, không thể gánh được việc lớn. Tiên thái phó Liễu Tiễn là thầy của Lý Nguyệt, thường hay nghe Lý Nguyệt khen ngợi Đặng Tự nên đã đích thân trực tiếp kiểm tra. Kết quả Đặng Tự đối đáp trơn tru, quả rất có tài năng. Ông nói từ khi làm ngục thừa, thời gian rảnh rỗi đều đọc sách, bù đắp khuyết điểm bản thân. Liễu Tiễn khen Đặng Tự “Nhạy bén nhanh trí, hăng hái thực tế”. Đám quan viên Đại lý tự rất khi dễ người đứng đầu của mình, nhưng thêm tám chữ này vào, Đặng Tự liền trở thành một cái tên hiên ngang lỗi lạc.
Đại lý tự liên tiếp phá được án lớn, lại được Tiên hoàng tán thưởng nên danh tiếng Đặng Tự ngày một vang dội, trở thành mục tiêu cuối cùng mà mọi người nhắm tới – trở thành Đại lý Tự khanh. Đến nay cùng với Đông kinh doãn Phùng Thai, Hình bộ Thị lang Vương Nghiên được xưng tụng là tam đại thần đoạn của bản triều.
Phùng Thai sở trường xét án lấy chứng cứ. Vương Nghiên thân là đại công tử của Thái sư, tính tình cứng rắn, thế lực mạnh, dám điều tra những vụ án kẻ khác không dám làm, có thể định tội những người kẻ khác không dám định, vì thế được liệt vào một trong tam thần đoạn. Đặng Tự giỏi về xem xét người nhận diện vết tích, chỉ với những chi tiết nhỏ nhặt tầm thường cũng có thể suy ra được mấu chốt của vụ án, đã soạn ra vài quyển như “Tuân tích lục”…, ghi chép lại kinh nghiệm phá án, đã trở thành quyển sách bắt buộc phải đọc của rất nhiều quan viên, hơn nữa ông lại là người hào sảng, không câu nệ tiểu tiết, dạy dỗ hướng dẫn kẻ khác cũng không giấu diếm gì, là người đứng đầu của tam thần đoạn.
Mặc dù Nghi Bình cách Kinh Thành không xa nhưng trước giờ mọi người chỉ ngưỡng mộ tài danh chứ chưa từng được đứng gần chiêm ngưỡng hào quang chói lọi của ông. Thế mà hôm nay, Đặng đại nhân lại phá được án lớn ở Nghi Bình, lại còn dùng phương pháp đầy tính truyền thuyết là vi phục xuất tuần để điều tra nghe ngóng, thử hỏi ai mà không phấn khích kia chứ!
Toàn bộ bàn ghế mà Đặng Tự từng ngồi qua trong quán ăn, tiệm trà, cả gian phòng trong quán trọ mà ông ở qua đều được cúng bái hết cả. Đến mấy người được thả ra khỏi tù cũng nói, lúc bị Tri phủ đại nhân bắt đi tưởng tiêu rồi chứ, nhưng may mà có Đặng đại nhân nên mới không bị dính án oan.
Vài văn nhân trong thành cũng đã chuẩn bị đem câu chuyện này của Đặng đại nhân viết thành truyền kỳ. Mấy đoàn kịch trong thành cũng mời người đem câu chuyện này viết thành kịch để diễn. Thậm chí có mấy ông chủ hiệu sách, ông chủ đoàn kịch còn mò đến tìm Trương Bình.
“Trương đại nhân văn chương bất phàm, nghe nói đã từng viết qua kịch nghệ, vả lại còn giúp Đặng đại nhân phá án lần này, mạo muội thỉnh cầu đại nhân viết lời tựa sau khi hoàn thành xong bản thảo, cũng là để cho bà con biết sự anh minh của Đặng đại nhân!”
Trương Bình lặng lẽ lật giở xấp giấy bản thảo mà ông chủ hiệu sách đem đến.
Trang đầu tiên đằng sau xấp giấy trắng là:
“Trời đất hình thành liền có âm dương nhị khí, nhật nguyệt luân chuyển, chúng sinh thanh trọc. Ngày x tháng x năm x, một luồng khí yêu đã thoát khỏi thiên nhãn, lẻn xuống phàm trần hoá thành súc yêu lông vàng bốn móng, hút âm nuốt dương, đẻ ra một ổ nghiệt súc có thể biến thành hình người, sinh sôi nảy nở thành một thôn làng, lấy Cô làm họ, quấy phá nhân gian. Ô! Há không biết trời xanh sớm đã cho hạ khắc tinh, sao tinh này là ai? Chính là ngũ tinh liêm trinh Bắc Đẩu vậy. Cưỡi cầu vồng bảy sắc, người khoác ráng mây ngũ sắc, nhập vào dinh thự Đặng Thị. Khi y cất tiếng khóc chào đời, hương lạ khắp phòng, bạch hạc dừng chân, hoa tươi bốn mùa cảm ứng đều nở cả…”
Trương Bình đè mấy tờ giấy trắng lên đống bản thảo: “Viên quan triều đình không được phép tham gia kinh doanh buôn bán, cho nên kẻ vụng về này không cách nào viết lời tựa cho được, mong lượng thứ cho.” Đợi khi ông chủ hiệu sách và chủ đoàn kịch ra về rồi hắn mới tiếp tục mở tài liệu biên tu huyện chí.
Người trong huyện đều âm thầm quan sát hắn, nhưng đều thấy dáng vẻ chừng như chưa hề có chuyện gì xảy ra của Trương Bình. Vẫn cứ như thế, sáng sớm đến, chiều tà trở về, chỉ cắm đầu vào sách vở miết.
Trần Trù và Ly Quán trọ hai ngày trong khách điếm, lúc này mới thấy mình ngốc.
Gã để tiền lại cho Trương Bình, lộ phí mang theo người cũng không nhiều, mà giá phòng thượng hạng khá đắt, gã tính hay là tạm thời thuê một tiểu viện nhưng tiền thế chân cũng chẳng rẻ chút nào, tìm tới tìm lui cũng không tìm được cách thích hợp.
Trần Trù có chút sốt ruột, lại nghe nói Tri phủ đại nhân đã hồi Phủ nha, phá một vụ lớn ở Nghi Bình, nghe đâu còn đả động đến Đại lý tự. Bất giác tim Trần Trù đánh lô tô vài cái, âm thầm lo lắng cho Trương Bình.
Không biết tại sao, nhưng Trương Bình hay dính vào mấy chuyện thế này, hy vọng trước mắt không xảy ra vấn đề gì.
Sau khi về nhà trọ, gã vẫn miên man nghĩ. Ly Quán nhẹ giọng nói: “Trần lang, mặt huynh nom buồn rầu thế, là đang lo lắng chuyện gì à?”
Trần Trù vội vàng nói: “Cũng không có chuyện gì lớn, chỉ là nghe nói Tri phủ đại nhân về Phủ nha rồi. Ta chưa nói với muội đúng không, bạn tốt của ta là Trương Bình làm Huyện thừa ở Huyện Nghi Bình. Lúc trước ta được huynh ấy chiếu cố, ở cùng với huynh ta. Chuyện của người này ấy hả, có kể ba ngày ba đêm cũng không hết, nói tóm lại thì đây là một người cực kỳ tốt, rất có nghĩa khí. Nhưng mà không biết tại sao, có chút vấn đề, huynh ấy à, cũng có chút trục trặc này nọ. Lúc hai đứa còn ở cùng nhau cũng thường gây sự này kia, khi Tri phủ đại nhân đến Nghi Bình rồi, có thể ta đã khiến huynh ấy gặp chút chuyện lôi thôi, chỉ sợ vì việc này mà huynh ta chuốc phải phiền phức.”
Thế là liền đem chuyện của Cao tri phủ ra nói với Ly Quán, rồi từ chỗ đó lại nói một chút về sự tích của Trương Bình.
Ly Quán khẽ cười nói: “Trần lang nói nhiều chuỵên như thế, muội nghe không hiểu lắm nhưng nghe Trần lang nói thế thì vị Trương công tử này là một người cực kỳ tốt bụng, mà người tốt thì tự khắc có trời phù hộ.”
Trần Trù cười khà khà: “Đúng thế.”
Thế nhưng tối đó Trần Trù không ngủ ngon được, cảm thấy cả người lạnh toát, chừng như có gió lạnh thổi thốc vào chăn vậy. Muốn lật người dậy nhưng mắt chẳng mở ra nổi, đấu tranh đến khi rã rời cuối cùng cũng mở được hai mắt, gã bật dậy thật mạnh.
Chăn mềm phủ trên tay gã, Ly Quán nhẹ nhàng hỏi: “Trần lang, làm sao thế?” rồi lại khẽ nhíu mày, “Tay huynh lạnh quá.”
Trần Trù thở dài nói: “Không có gì.” Sao lại nằm mơ thấy ác mộng rồi.
Ly Quán nắm chặt lấy tay gã, đột ngột nói: “Trần lang, huynh lo lắng không phải chỉ vì Trương công tử đúng không?”
Trần Trù ngẩn người.
Ly Quán nói: “Trần lang, muội cũng đâu phải là loại ngốc nghếch đến mấy chuyện đời cũng không hiểu đâu chứ. Huynh vốn là thư sinh, có được bao nhiêu tiền chứ. Căn phòng thượng hạng mà chúng ta đang ở cũng chẳng rẻ gì, rồi đồ chàng mua cho muội, ăn mặc hàng ngày cũng tốn rất nhiều tiền. Tiền chàng tích cóp được có thể sống thế này mãi ư?”
Trần Trù lật tay lại nắm lấy tay cô: “Yên tâm, thể nào cũng có cách.”
Ly Quán lắc lắc đầu: “Trần lang, cứ thế này không phải là cách lâu dài. Dù sao ngày tháng sau này cũng còn dài, bắt đầu từ hôm nay phải sống thực tế thôi.”
Ngày tháng sau này còn dài ư.
Cả người Trần Trù cứng lại, một luồng nhiệt chảy cuồn cuộn trong lòng.
“Ly Quán ơi Ly Quán, kiếp trước của ta đã đốt bao nhiêu nén hương mà đời này lại được gặp muội thế.”
Hai gò má Ly Quán ửng đỏ, vùi mặt vào trong lòng Trần Trù: “Trần lang, huynh đi đâu muội cũng đều sẽ bên cạnh huynh.”
Tháng chạp cận kề, công việc của Lễ bộ ngày càng nặng nề.
Mỗi ngày Lan Giác đều mệt đến độ không còn hơi sức đâu để dạy dỗ Lan Huy nữa, chỉ còn nước trở thành một người cha hiền từ, xoa xoa đầu thằng nhỏ, nói mấy câu như “ngoan”, “ừ”, “giỏi lắm”… Đối với chuyện này rõ ràng Lan Huy vô cùng vui vẻ, đầy hăng hái.
Mặc dù Cung Thượng thư vẫn chưa dâng chiết cáo lão từ chức nhưng khắp cả triều ai ai cũng biết chuyện này xem như đã rõ mười mươi rồi. Có mấy người không hiểu cục diện vấn đề còn cho rằng Lan Giác sắp ngồi cao, bày tỏ tình hữu nghị. Lan Giác cư xử chừng mực nhưng vô cùng tổn hao sức lực.
Hôm nay, trở về phủ trong tình trạng sức cùng lực kiệt, đến cả bữa tối cũng chẳng muốn dùng, sai người chuẩn bị nước nóng, cứ ngâm mình nghỉ ngơi trước đã thì đột nhiên có người thông báo: “Lão gia, điệt thiếu gia đến ạ.”
Lan Giác chực khựng lại, nhất thời không hiểu đầu cua tai nheo gì thì tổng quản đã lập tức nói đầy thân thiết: “Tên hạ nhân này nói sai rồi, bây giờ phải gọi là Liễu đại nhân rồi. Chính là Liễu tiểu thiếu gia, Liễu trạng nguyên.”
Lúc này Lan Giác mới sực tỉnh.
Cái người được gọi là cháu vợ Liễu Đồng Ỷ này của y thật không giống với ông nội bác cả của hắn chút nào. Mỗi lần gặp Lan Giác đều một tiếng gọi dượng hai tiếng gọi dượng vô cùng thân thiết, không những thế còn thường chơi đùa với Lan Huy. Sau khi đăng khoa còn mang lễ đến Lan phủ bái kiến. Người của Liễu gia, hành sự chu toàn hợp lẽ thế này quả thật khó thấy.
Lan Giác nói: “Nhanh mời vào, dẫn đến Cư Nhàn sảnh nhé.”
Cư Nhàn sảnh là một căn phòng nhỏ ấm áp bên trong viện của Lan phủ. Thường ngày Lan Giác và Lan Huy thường hay ngồi đây. Dượng gặp cháu trai, tiếp đón ở đây cho thấy không có sự xa cách.
Lan Giác vẫn chưa thay quan phục ra, cứ thế vận một thân cẩm bào màu nâu có hoa văn hoa đường lê vào trong sảnh chờ. Không lâu sau Liễu Đồng Ỷ được hạ nhân dẫn đến, bái kiến Lan Giác: “Không thông báo trước một tiếng đã mạo muội đến đây, mong dượng không trách tội.”
Lan Giác cười ha ha nói: “Sao có thể chứ, người trong nhà qua lại còn phải mượn mấy lễ nghi phiền phức này sao?”
Hạ nhân xung quanh mời Liễu Đồng Ỷ cởi áo nhập toạ, y cởi áo khoác lông cừu có hình sen xanh ra, chỉ vận một trường sam màu ngân tương, cũng là đồ hay vận ở nhà.
Lan Giác hỏi: “Đã dùng bữa tối chưa?”
Liễu Đồng Ỷ đáp: “Đến có hơi vội, hay cháu đã quấy rầy bữa cơm của dượng rồi?”
Lan Giác khẽ cười bảo: “Ta vừa từ nha môn trở về. Xem ra cháu cũng chưa ăn, nếu không chê cơm bên này thì ở lại cùng ăn chung đi. Huy nhi nhớ cháu lắm đấy, cứ tối ngày lẩm bẩm Đồng biểu ca bên tai ta.”
Liễu Đồng Ỷ nói: “Cám ơn dượng, vậy đứa cháu này không khách sáo đâu.” Rồi lại cười, “Chỉ cần dượng đừng nghĩ oan cho cháu cố tình đến đây để ăn chùa bữa cơm là được.”
Lan Giác nói: “Sao có thể chứ, có lý nào cháu trai đến nhà rồi mà dượng còn không cho ăn cơm, để nó bụng đói về nhà chứ. Cho dù là cháu đã ăn rồi, thì cũng phải ăn nhiều hơn một bữa mới được.”
Đôi bên lại bật cười. Hai người ngồi uống trà đợi, Lan Giác hỏi thăm y tình hình dạo gần đây của Liễu trạch. Liễu Đồng Ỷ cũng nhất nhất trả lời, những lời cần nói đã nói xong, lúc này Lan Giác mới lại bảo: “Đúng rồi, dạo này cháu và Đặng đại nhân phá được một vụ án lớn ở ngoài thành quả thật đáng nể. Trong triều ai cũng khen ngợi không ngớt.”
Liễu Đồng Ỷ đặt tách trà xuống: “Dượng khen nhầm người rồi, cháu chỉ hưởng sái hào quang của Đặng đại nhân thôi.” Rồi y chắp hai tay lại, “Kỳ thực hôm nay tới đây là có một chuyện muốn nhờ dượng giúp đỡ.”
Khoé môi Lan Giác khẽ cong lên: “Người trong nhà cả, không cần dùng chữ ‘nhờ’, cứ nói thẳng ra đi.”