Quay về thời điểm khoảng vạn năm trước khoảng năm 179 TCN, lui về vùng đất nơi nước Nam, dưới nhân gian thì sau khi nơi được gọi là Cổ Loa thành của An Dương vương Thục Phán bị thất thủ trước thế địch mạnh của quân Lĩnh Nam ở phương Bắc dưới sự chỉ huy của "ông thông gia" họ Triệu, cộng thêm cái tật hai ngón của "cậu rể quý" Trọng Thủy đã đánh tráo từ thần khí nỏ Liên Châu hàng real thành hàng fake nên mới dẫn tới sự thất bại của An Dương vương hay nói đúng hơn là sự khinh địch không đề phòng từ những người gần gũi.
Cũng may là An Dương vương được cận thần là Cao Lỗ tướng quân liều mạng nên mới có thể toàn mạng cùng Mỵ Châu công chúa bỏ thành mà chạy đi lánh nạn và từ đó thì nhà nước Âu Lạc nơi phía nam đã bị sụp đổ và kế tiếp đó niên hiệu của Việt Nam khi này dưới sự cai trị của nhà Triệu đã trở thành nước Nam Việt.
Trở lại với cha con An Dương vương và Mỵ Châu thì sau một ngày một đêm trên lưng ngựa chạy trốn không ngừng nghỉ, cuối cùng thì người mệt, ngựa mỏi nhưng không vì thế mà quân địch từ bỏ mà vẫn đuổi ở phía sau hai người hòng bắt giết An Dương vương.
An Dương vương lúc này đã tuyệt vọng, thấy trước mặt là một vùng biển với sóng đang dâng lên vỗ từng lớp, từng lớp, ông ta và Mỵ Châu cùng xuống ngựa rồi để cho con ngựa chạy đi, để phần đời còn lại của nó tự sinh tự diệt, lúc này hai mắt của An Dương vương đã đỏ hoe, ông liền tuốt kiếm rồi gào lên như muốn trút giận:
- Là trời hại ta, là trời hại ta, cơ nghiệp họ Thục cả đời này ta gây dựng đã mất, Thanh Giang sứ thần ở đâu, mau mau giúp ta lần cuối!!!
Gào khản cả cổ nhưng vẫn không thấy có động tĩnh gì, lại thấy thế địch mạnh đang rầm rập đao kiếm kéo tới, ông ta biết có sống thì cũng bị đám quân Triệu bắt sống.
Trong đầu An Dương vương đã quyết không thể để sự uy nghiêm của vua một nước bị làm nhục, thà chết còn hơn, không suy nghĩ nhiều ông ta cắn răng quay lại với vẻ mặt buồn bã rồi nói với con gái Mỵ Châu:
- Cha thật vô dụng vì đã để mất đi cơ nghiệp, ta đi trước, hy vọng là sau này Trọng Thủy sẽ thay ta bảo vệ con, nếu có cơ hội thì con hãy báo thù cho cha!!!
Dứt lời, không để cho Mỵ Châu can ngăn thì ông ta đã kề kiếm lên cổ, đang chuẩn bị cứa cổ thì vút một cái, một luồng chưởng lực bá đạo màu ánh kim mang khí tức uy trấn bức người mà người phàm trần không thể nhìn thấy được nhưng An Dương vương lại có thể cảm nhận được sự uy áp của luồng khí lực này và tiếng hò hét của đám quân Triệu Đà phía sau kia bỗng biến mất.
Đến khi ông ta quay lại thì thấy một làn khói bụi mù mịt bao phủ lấy cả một đám lính, đến khi khói bụi bay đi thì đám lính của quân Triệu Đà đã bị luồng kình phong đó biến trở thành... một đám xác khô, An Dương vương còn đang ngẩn người ra thì một giọng nói như trách móc vang lên:
- Ngài còn đứng ngây ra đó, giặc ở sau lưng nhà ngươi đó!!!
Tiếng nói vang vọng đó vừa dứt thì ngay tức khắc một luồng sáng màu vàng kim chói lóa hiện ra giữa không trung, một bóng ảnh của một nam tử khoảng hơn 30 từ trong luồng sáng đó bước ra đứng trước mặt An Dương vương, người này nghiêm mặt nhìn An Dương vương chờ ông ta nhận ra điều gì đó, An Dương vương thấy vậy thì chắp tay:
- Đa tạ Thanh Giang sứ giả đã cứu giúp ta!!!
Thanh Giang sứ giả lắc đầu rồi chỉ về phía Mỵ Châu, An Dương vương thấy vậy thì vẫn chưa rõ việc gì, sau một lúc thì nhận câu nói vừa rồi của Thanh Giang sứ giả thì nhận ra điều gì đó thì ngẩn ra, ông ta từ từ quay lại nhìn về phía Mỵ Châu thì chỉ thấy mỗi con gái yêu của mình đang ôm mặt khóc, còn đang chưa hiểu như thế nào thì bất giác hai mắt của ông ta như long sòng sọc lên vì thấy chiếc áo lông ngỗng mà mình đã tặng cho con gái nay đã bị chính tay dứt lông ra, phía sau từng sợi lông vũ đang bay ở phía sau coi như làm dấu dẫn giặc đến đây, trong tay nàng vẫn còn cầm một nắm lông, sẵn có kiếm trong tay ông ta liền chĩa kiếm chỉ vào Mỵ Châu:
- Con... con... con hại cha rồi, đáng chết súc sinh, nhà ngươi chết đi!!!
Mỵ Châu mặc dù trong tay vẫn đang nắm một nắm lông ngỗng, nước mắt đã giàn giụa nhìn An Dương vương mà nói:
- Cha, nếu con có lòng phản nghịch mưu hại người thì khi chết đi thân xác này sẽ biến thành cát bụi, còn nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối chết đi sẽ biến thành châu ngọc để tẩy sạch mối nhục quốc thù!!!
An Dương vương lúc này đã vô cùng căm giận, vung kiếm toan định chém Mỵ Châu thì lại thêm một giọng nói xa lạ như của một người thanh niên vang lên:
- Thục Phán vương... mà thôi con ngài, ngài tự xử lý, ta chỉ giúp ông xử bọn lính kia thôi, tạm biệt, đúng là phí của giời!!!
Cả An Dương vương và Thanh Giang sứ giả đưa mắt nhìn ra xung quanh nhưng không hề thấy ai, tuy vậy với đẳng cấp của mình, Thanh Giang sứ giả khẽ nheo mắt mà trầm ngâm:
- "Khí tức của kẻ này rất giống với khí tức đêm đó ta chiêm tinh được, trong tương lai thì sẽ có một luồng sáng từ phía Bắc bay đến phía nước Nam ta... lẽ nào...!!!"
Thanh Giang sứ giả vừa định thần lại thì nhìn thấy bây giờ Mỵ Châu đã đầu một nơi, thân một nẻo nằm lạnh ngắt trên vũng máu đỏ đang loang ra, thấy An Dương vương đang thở hồng hộc, tóc tai rũ rượi, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, hai mắt đỏ hoe đang định vung tay kết liễu đời mình thì Thanh Giang sứ giả đã nhanh tay cầm chặt lấy cổ tay của An Dương vương ngăn ông ta lại rồi đưa thứ gì đó vào tay ông ta mà nói:
- Chọn đi, một là cầm vật này mà rẽ nước xuống long cung sẽ có người chờ nhà ngươi, hai là ở đây mà tự sát, ông chết thì không sao nhưng cái xác của ông thì sẽ được làm đồ chơi cho đám lính kia sắp đến đấy!!!
Nói xong, Thanh Giang sứ giả liền biến mất vào hư không chỉ để mặc cho An Dương vương vẫn còn ngây ngẩn ở đó, suy tư một lúc thì ông ta cũng nhìn lại về phía sau thì thấy xa xa đã vọng lại những tiếng ngựa hí, cộng thêm những tiếng rầm rầm đang lao tới. Biết không sớm thì muộn quân địch cũng sẽ tới đây mà bắt mình, An Dương vương thở dài nhìn lại xuống thân xác của Mỵ Châu mà hai mắt đã đỏ hoe rưng rưng:
- Ta đi đây!!!
Dứt lời, ông ta mở lòng bàn tay ra thì thấy trong tay mình là một cái sừng nhỏ màu vàng kim cong cong rồi dần dần nó to lên thì ông ta mới nhận ra đó chính là một chiếc sừng tê dài bảy tấc lận. Không suy nghĩ nhiều, liền theo lời dặn của Thanh Giang sứ giả mà cầm chặt lấy chiếc sừng mà hướng về phía những cơn sóng dữ đang vỗ từ lớp nơi mặt biển rồi như có phép lạ, từ đỉnh của chiếc sừng tỏa ra một luồng sáng rồi chiếu xuống ra phía mặt biển một đường thẳng như là tín hiệu chỉ đường rồi dần dần mặt biển ầm vang sóng dữ liền tách ra làm hai phần, còn ở giữa hai luồng nước thì cũng trơ ra để lộ một vùng đất khô cạn.
Biết đây là con đường cứu cánh duy nhất của mình vào lúc này, An Dương vương chép miệng một cái rồi từng bước đi thẳng theo con đường đất đó và cứ đi tới đâu thì phía sau lưng nước lại lấp trở lại như chưa hề có chuyện gì xảy ra rồi An Dương vương Thục Phán một đời oanh liệt đã biến mất nơi sóng biển. Khoảng nửa canh giờ sau thì cánh quân của Trọng Thủy kéo tới, tới nơi, hắn ngó quanh thì chẳng thấy bóng hình của "nhạc phụ" đâu nhưng thứ đập vào mắt hắn lúc này lại chính là thân xác không toàn vẹn của Mỵ Châu đang nằm lạnh lẽo dưới vũng máu của nàng, xung quanh thân xác của nàng lúc này là những con trai, sò đang tỏa gì đó lấp lánh vô cùng, nhưng Trọng Thủy cũng chẳng quan tâm, hắn thấy vậy thì chết sững một lúc, sau đó hắn cũng hớt ha hớt hải nhảy bịch xuống lưng ngựa chạy tới mà quỳ mọp trên đất cát, mặc kệ cho cát biển bùn đất vấy bẩn lên khôi giáp mà ôm chặt lấy thi thể của Mỵ Châu mà gào lên:
- Nàng ơi!!!
Ở bên này thì dù đầu đã lìa ra khỏi cổ nhưng hai mắt của Mỵ Châu sau khi có Trọng Thủy tới thì đang mở trừng trừng thì đột nhiên nhắm lại. Sau một hồi gào khóc thì Trọng Thủy cũng thẫn thờ như người mất hồn rồi một tay lấy ra một tấm khăn lụa đỏ rồi bọc lấy đầu của Mỵ Châu mà bế theo thân xác của nàng mà thẫn thờ từng bước trở về thành Cổ Loa....
----------------
Tạm gạt qua những sự chuyển đổi thời thế, thế thời nơi nhân gian, mới đó mà đã mấy trăm ngày sau theo lịch của thiên giới, ngước lên phía trên cả ngàn vạn dặm theo phương thẳng đứng, gạt qua những tầng mây trắng và... nhớ là phải mở ra thiên nhãn ra mà nhìn chứ mắt thường thì bố bảo nhìn được.
Nằm sâu bên trong những tầng mây hiện ra là một tòa cung điện nguy nga và liên tục tỏa ra những ánh hào quang vàng rực chứa đầy linh khí. Bên trong cung điện thì Ngọc Đế nơi thiên giới nước Nam đang họp bàn với các vị thần tiên về vấn đề gì đó nơi nhân giới, ở bên cánh tả Ngọc Đế là hàng lão tiên, còn bên cánh hữu là những vị thần tướng, lúc này một vị tiên lão râu tóc bạc phơ, tay trái cầm một cây tích trượng đi tới rồi chắp tay:
- Muôn tâu Ngọc Đế, cho tới nay nước Nam dưới trần lại bị đám phương Bắc đô hộ, chẳng hay Ngọc Đế có ý định phái thiên binh, thiên tướng xuống giúp đỡ không ạ!!!
Ngọc Đế còn đang phân vân nên chọn ai thì một lão thần với bàn tính trong tay tiến lại rồi chắp tay:
- Bẩm Ngọc Đế, hiện giờ dưới dương thế có một kẻ được cho là thầy địa lí giỏi nhất phương Bắc là người họ Cao tên Biền đã tới đây nhằm trấn yểm xứ Nam ta...
Vị thần này còn chưa kịp nói hết thì Ngọc Đế đã nắm tay thành một nắm đấm rồi đập xuống long ỷ mà gằn lên:
- Đám người phương Bắc này thật ức người quá đáng, ta đã không muốn làm to chuyện thì thôi mà đại đế bên đó còn thích làm càn, được, ta sẽ cùng với các tướng lĩnh sang bên đó nói chuyện, nếu không được thì đánh, đừng tưởng thiên đình phương Bắc các người to mà ta sợ!!!
Các tướng lính nghe vậy thì cũng nhất trí hô:
- Phải đấy, đánh,... đánh,... đánh...
Vị tiên kia nghe vậy thì lại tính tiếp rồi nói:
- Bẩm Ngọc Đế, theo như lão thần tính toán thì việc này muốn giải quyết nhanh thì chỉ có thể là nhờ tới sơn thánh nơi núi rừng vùng Tản Viên thôi ạ!!!
Ngọc Đế nghe vậy thì hỏi:
- Ý ngài là sao!!!
Vị tiên kia đáp:
- Bẩm, tên thầy địa lí Cao Biền đó tuy rằng có pháp lực để có thể trấn áp được một số tiểu thần nhưng một khi hắn ta động tới lãnh địa của sơn thánh vùng Tản Viên thì chỉ có thể sống nhiều nhất là hai tới ba năm dương thọ nữa, lúc đó ta sẽ sang đó đàm phán, thương lượng rồi mang về đây để xét xử hắn!!!
Ngọc Đế nghe vậy thì cũng gật đầu, vị thần kia lại tiếp lời:
- Theo lão thần suy tính thì chỉ khoảng hơn một năm nữa thì một vật phải nói là bảo vật tụ linh của Thái Thượng lão quân nơi phương bắc sẽ bay tới phương Nam ta và hơn một ngàn năm sau sẽ xuất hiện một kẻ mà phải nói là đủ sức để tung hoành ngang dọc nơi phương Bắc ạ!!!
Ngọc Đế nghe tới đây thì từ nét mặt căng thẳng đã dần dần giãn ra rồi tỏ ra vô cùng hài lòng:
- Vừa lòng ta lắm, quân tử cả ngàn năm trả thù chưa muộn!!!
Dứt lời, Ngọc Đế liền hỏi vị lão tiên kia:
- Liệu có vị thần nào có thể quản được nhân vật đó không???
Lão thần đó nghe vậy thì đưa tay lên vuốt vuốt chòm râu bạc mà cười:
- Ngọc Đế, chẳng phải ngài đang ghen đó chứ, thôi được rồi, người này sẽ được là con trai của hậu kiếp của Tản Viên sơn thánh đó!!!
Ngọc Đế nghe tới đây thì cũng vuốt râu gật gù:
- Nếu vậy thì được rồi, bãi triều!!!
Các vị thần tước bên cánh hữu nghe Ngọc Đế nói vậy thì ông nào ông nấy cũng ngẩn người ra:
- Ô, thế không đánh à!!!
- Chán nhể, chỉ muốn có lệnh một cái là đánh luôn!!!
Sau đó các vị thần cũng dần dần lùi ra hết chỉ còn lại Ngọc Đế cùng hai bóng người ở phía sau, ngài vừa định đứng dạy thì bỗng nhớ ra điều gì đó, ngài liền ngoắc tay về phía bên trái, rồi từ bên trái một người thanh niên nhìn mặt trắng bệch, dáng người thư sinh, nhìn qua trông vẫn còn rất trẻ con tiến lại, trên tay hắn cầm một cuốn sổ khẽ chắp tay:
- Ngọc Đế có gì dặn dò ạ???
Ngọc Đế liền hỏi:
- Nam Tào, nhà ngươi tra xem, kẻ đó là ai và bao giờ thì hắn xuất hiện!!!
Không mất nhiều thời gian, gã thư sinh Nam Tào đã tra ra rồi nói:
- Dạ bẩm Ngọc Đế là kẻ này tên là Nguyễn Tuấn Anh, hắn sinh ngày 26 tháng 7 năm 1996 ạ, gốc gác của hắn là do bảo vật phương Bắc kia hình thành và trong người hắn thì là có hai dòng máu của cả phương Bắc lẫn phương Nam ta ạ!!!
Ngọc Đế nghe tới đây thì vuốt râu rồi khẽ gật đầu, trên nét mặt thì tỏ ra vô cùng hài lòng, rồi ngài cũng phất tay: