Ánh nắng mắt trời rực rỡ tỏa hơi nóng thiêu đốt làn da trần, khắp ngực, chân và đôi chân dài của anh, dù đã gần đến lúc mặt trời lặn. Những tia sáng dài ném những luồng ánh sáng nhảy múa lên đầu ngọn sóng, gần như thôi miên làm anh nhìn chúng mải mê. Không, làn nước lấp lánh không phải là thứ thôi miên anh, mà là sự thật rằng anh chả có gì quan trọng để làm ngoài việc mải mê nhìn chúng. Anh đã quên mất hòa bình có âm thanh như thế nào, có cảm giác ra sao. Trong một tháng dài, tuyệt vời, anh có thể thư giản chỉ một mình và chỉ là một người đàn ông. Anh sẽ câu cá bất cứ khi nào anh thích, hay bơi thuyền trên làn nước ấm áp, lôi cuốncủaGulf nếu anh thấy thao thức. Nước luôn luôn lôi kéo anh. Ở đây nó có màu xanh đen, ở kia có màu ngọc bích rực rỡ, đằng kia thì lại là một màu xanh long lanh nhẹ nhàng. Anh có đủ tiền để mua xăng và lương thực dự trữ, và chỉ có hai người trên thế giới biết anh ở đâu hay làm cách nào để liên lạc được với anh. Cuối kỳ nghỉ của tháng này anh sẽ quay lại cái thế giới xám xịt mà anh đã chọn và đánh mất mình trong bóng tối, nhưng lúc này đây anh có thể nằm trong ánh nắng, và đó là tất cả những gì anh muốn. Kell Sabin đã mệt mỏi, chán nản vì những thử thách không ngừng, những bí mật và thủ đoạn, cũng như nguy hiểm và dối trá trong công việc của anh. Đó là một công việc cực kỳ quan trọng, nhưng trong tháng này anh sẽ để một ai đó khác làm việc đó. Tháng này là của anh, anh gần như có thể hiểu được điều gì đã quyến rũ Grant Sullivan, người bạn thân và cũng là điệp viên giỏi nhất anh từng có, vào sự bí ẩn tĩnh lặng của những ngọn núi Tennessee. Sabin cũng đã là một điệp viên hàng đầu, một huyền thoại quanh Tam giác Vàng và, sau này, là vùng Trung Đông và Nam Mỹ, tất cả những điểm nóng trên thế giới. Giờ đây anh là một trưởng phòng, cái bóng đằng sau một nhóm điệp viên xuất sắc làm theo những hướng dẫn và huấn luyện của anh. Rất ít người biết về anh, lớp vỏ bảo vệ an toàn bao bọc quanh anh gần như là tuyệt đối. Sabin thích như vậy, anh là một người đàn ông cô độc, đen tối, luôn đối diện với thực tế khắc nghiệt của cuộc sống bằng cả sự hoài nghi lẫn chấp nhận. Anh biết rõ những hạn chế và nguy hiểm trong công việc của mình, và cả mặt bẩn thỉu và tàn nhẫn, nhưng anh là một người thực tế và anh đã chấp nhận tất cả những điều đó khi anh nhận lấy công việc này.
Tuy vậy, thỉnh thoảng điều đó vẫn chộp lấy anh, và anh phải tránh xa nó, để sống những khoảng khắc ít ỏi giống như một công dân bình thường. Phương tiện đào thoát của riêng anh là chiếc thuyền được đặt làm theo ý mình. Kỳ nghỉ của anh, giống như mọi thứ khác về anh, là những bí mật được bảo vệ cấp cao, nhưng những ngày và đêm lênh đênh trên biển là những thứ khiến anh giống con người, những khoảng thời gian duy nhất anh có thể thư giãn và suy nghĩ, có lúc anh nằm trần truồng trong ánh nắng và thiết lập lại những liên kết với phần người của chính anh, hay nhìn những vì sao vào buổi tối và lấy lại quan điểm của mình.
Một con mòng biển trắng toát bay vút lên, kêu lên những tiếng ai oán. Anh biếng nhác nhìn theo nó, tự do và thanh thoát, được đặt trong cái bát màu xanh không gợn chút mây mù của bầu trời. Những ngọn gió biển vuốt ve nhẹ nhàng trên làn da trần của anh, và sự dễ chịu mang đến cho đôi mắt đen của anh một nụ cười hiếm hoi. Có một nét hoang dã không thể chế ngự trong anh mà anh phải giữ thật chặt trong vòng kiềm chế, nhưng ngoài này, với chỉ ánh nắng, gió, và nước, anh có thể để cái phần đó của mình nổi trội lên. Sự giới hạn phải có quần áo gần như thật là bất kính ngoài này, và anh bực bội khi phải mặc quần áo bất kỳ lúc nào anh đi tới trạm đổ xăng, hay bất kỳ lúc nào một con thuyền khác xuất hiện bên cạnh để trò chuyện, như người ta vẫn thường làm nơi này.
Mặt trời đã lặn xuống thấp hơn, dìm mép vàng rực rỡ của nó vào làn nước khi anh nghe thấy một âm thanh động cơ khác. Anh quay đầu để quan sát chiếc thuyền đó, hơi lớn hơn của anh, rẽ sóng một cách nhàn nhã. Đó là cách duy nhất cuộc sống diễn ra ở đây: nhàn nhã. Vùng đất càng ấm áp, thì thời gian càng chậm chạp. Sabin giữ chặt mắt trên con thuyền, ngưỡng mộ những đường nét thanh thoát, và âm thanh mượt mà, mạnh mẽ của động cơ. Anh thích thuyền, và anh thích biển. Chiếc thuyền của riêng anh là một phần thưởng, và một bí mật được bảo vệ khá kín đáo. Không ai biết nó thuộc về anh, nó được đăng ký với một đại lý bảo hiểm ở New Orleanskhông hề biết tì gì về Kell Sabin. Thậm chí cả tên của con thuyền, Wanda, cũng chẳng có ý nghĩa gì. Sabin chẳng hề biết ai tên là Wanda hết, đó chỉ đơn thuần là một cái tên mà anh đã chọn. Nhưng Wanda hoàn toàn là của anh, với những bí mật và bất ngờ của chính nó. Bất kỳ ai thực sự biết rõ anh cũng sẽ không mong đợi điều gì khác, nhưng chỉ một người đàn ông trên thế giới từng biết về người ẩn sau chiếc mặt nạ ấy, và Grant Sullivan không tiết lộ một bí mật nào cả.
Tiếng động cơ của con thuyền kia thay đổi khi nó chậm lại và chuyển hướng sang anh. Sabin chửi thề tức tối, nhìn quanh tìm bộ đồ vải jeans bạc màu mà anh thường giữ trên boong cho những tình huống như thế này. Một giọng nói trôi đến anh trên làn nước, và anh lại nhìn vào con thuyền kia. Một phụ nữ đang đứng ở lan can phía trước, vẫy tay tung tẩy trên đầu trong một điệu bộ không khẩn cấp chút nào, nên anh đoán họ chỉ đang muốn trò chuyện và không có tí rắc rối nào. Ánh nắng ban chiều lấp lánh trên mái tóc đỏ của cô ta, biến nó thành màu lửa, và trong một khắc Sabin chăm chú nhìn nó, sự chú ý của anh bị báo động bởi cái bóng màu đó rực sáng, khác lạ đó.
Một cái cau mày mang đến những nếp nhăn giữa hai lông mày của anh khi anh nhanh chóng xỏ chân vào quần áo và kéo khóa. Chiếc thuyền vẫn quá xa để anh thấy được mặt cô ta, nhưng mái tóc đỏ ấy đã làm xấu thêm vài ký ức bé nhỏ giấu kín đang cố trồi lên. Anh chăm chú nhìn cô ta khi con thuyền từ từ hướng về phía anh, mắt anh sáng lên quả quyết. Có điều gì đó về mái tóc ấy...
Đột ngột mọi bản năng trong Sabin đều rít lên báo động và anh lăn xuống mặt boong, không tra vấn cái cảm giác khó chịu gợn xương sống, nó đã cứu đời anh quá nhiều lần để anh không phải do dự. Anh trải rộng ngón tay trên mặt gỗ ấm áp của con thuyền, nhận rõ rằng anh có thể đang tự biến mình thành thằng ngốc, nhưng anh thà là một tên ngốc còn sống hơn là một cái xác thông minh. Tiếng chiếc động cơ ngừng hẳn lại, như thể nó đã đi chậm hơn nữa, và Sabin quyết định một điều nữa. Vẫn nằm sấp, với mùi dầu trong lỗ mũi và tiếng kèn kẹt của gỗ trên làn da trần, anh trườn mình tới ngăn dự trữ.
Anh không bao giờ đi đâu mà không có vài phương tiện phòng vệ. Khẩu súng trường mà anh kéo ra khỏi ngăn dự trữ vừa mạnh mẽ vừa chính xác, dù anh biết cùng lắm nó cũng chỉ là một biện pháp ngăn chặn tạm thời mà thôi. Nếu những bản năng của anh là sai, thì anh chẳng cần đến nó chút nào, nếu bản năng của anh là đúng, thì chúng sẽ có những hỏa lực hơn xa khẩu súng trường này, bởi vì bọn chúng hẳn đã chuẩn bị cho chuyện này.
Chửi thề dưới hơi thở, Sabin kiểm tra xem khẩu súng trường đã ở trình trạng tự động khai hỏa chưa và trườn lại về hướng lan can tàu. Bình tĩnh chọn chỗ ẩn nấp, anh để cho nòng khẩu súng trường nhìn thấy được, và anh ló đầu ra chỉ vừa đủ cho mình nhìn thấy con thuyền kia. Nó vẫn đang tiến gần đến anh, còn cách chưa đến một trăm yard nữa.
“Thế là đủ gần rồi!” anh hét lên, không biết rõ liệu giọng nói của mình có đủ rõ để hiểu được qua âm thanh tiếng động cỡ ầm ĩ không. Nhưng chuyện đó không quan trọng, miễn là họ biết anh đang la hét gì đó.
Con thuyền chậm lại, giờ gần như không chuyển động qua làn nước nữa, chỉ còn cách bảy mươi lăm yard. Đột nhiên nó dường như nhung nhúc những người, và không một ai trông giống những ngư dân Gulf thông thường hay người chơi thuyền nhàn nhã cả, bởi vì tất cả họ đều được vũ trang, thậm chí cả người phụ nữ tóc đỏ. Sabin nhìn lướt qua họ nhanh lẹ, thị lực tuyệt hảo của anh thu vào mọi chi tiết về vóc dáng và kích thước. Anh có khả năng nhận rõ các loại vũ khí mà không cần phải nghĩ về nó, anh quá quen thuộc với chúng rồi. Con người mới là thứ anh quan sát, và mắt anh quay lại một người đàn ông. Thậm chí ở khoảng cách này, và dù cho hắn ta hơi đứng lùi sau những người khác, vẫn có nét gì đó quen thuộc về hắn, cũng kiểu như có gì đó quen thuộc về người phụ nữ vậy.
Giờ thì không còn gì nghi ngờ nữa, và sự bình tĩnh băng giá, chết chóc phủ lên anh, y như nó vẫn thường như vậy trong những tình huống sinh tử. Anh không lãng phí thời gian để lo lắng xem anh bị trội hơn bao nhiêu người, thay vào đó anh bắt đầu cân nhắc và vứt bỏ các lựa chọn, mỗi quyết định được hình thành trong một chớp mắt.
Một tiếng CRACK! gọn ghẽ xé tan buổi chạng vạng - âm thanh của khẩu súng trường khai nòng lao đi trên làn nước. Anh sượt qua viên đạn nóng hổi khi nó xé không khí trên đầu anh và ghim vào mặt gỗ của cabin đằng sau anh. Với một chuyển động mượt mà như lụa dầu Sabin nhắm lấy mục tiêu và bắn, rồi hạ đầu xuống, tất cả liền một lúc. Anh không cần đến tiếng thét chót tai đột ngột chọc xuyên bầu trời để cho anh biết rằng anh đã không trượt, Sabin sẽ hết sức ngạc nhiên và tức giận nếu anh bị trượt.
“Sabin!” Tiếng gầm vang dội sắc nhọn trên làn nước. “Anh biết là anh không có lấy một cơ hội nào! Hãy làm cho mình thoải mái hơn đi.”
Nhấn âm rất tốt, nhưng không hẳn là Mỹ. Lời đề nghị đó chính là những gì anh mong chờ. Cơ hội tốt nhất của anh là vượt qua chúng, tốc độ của Wanda chỉ là một trong những đặc tính khác biệt của nó. Nhưng để vượt qua chúng, anh phải lên tới bộ phận điều khiển ở trên đỉnh, tức là để lộ mình trước làn đạn của chúng trong khi trèo lên thang.
Sabin cân nhắc tình huống và chấp nhận rằng anh có lẽ có năm mươi phần trăm cơ hội trèo lên được đến đỉnh, có thể ít hơn, phụ thuộc xem chúng bị động thái của anh làm cho ngạc nhiên đến cỡ nào. Mặt khác, anh không có cơ hội nào hết nếu anh chỉ đơn giản ngồi đó và cố kìm hãm chúng với chỉ một khẩu súng trường. Anh có rất nhiều đạn, nhưng chúng sẽ có nhiều hơn. Di chuyển sẽ là một rủi ro anh phải nhận lấy, nên anh không lãng phí thời gian để lo lắng về những cơ hội đang nhỏ dần của mình. Anh hít một hơi thật sâu, nín lại, rồi thở ra chậm chãi, thu cơ thể rắn chắc như đá của mình vào trạng thái chuẩn bị. Anh cần phải lên cao nhất trên thang hết mức có thể với cú nhảy đầu tiên. Nắm chặt lấy khẩu súng trường, anh hít một hơi nữa và nhảy lên. Các ngón tay ấn chặt vào nòng súng khi anh di chuyển, chế độ khai hỏa tự động khiến cho thứ vũ khí đó rung lên trong tay anh và bắt tất cả những kẻ trên con thuyền kia phải tìm chỗ trốn. Bàn tay phải vươn ra chạm đến bậc cao nhất của chiếc thang, và bàn chân trần của anh chỉ hơi chạm trước khi lâng anh đi cao hơn. Qua khóe mắt anh nhìn thấy những làn đạn trắng xóa thậm chí trước cả khi anh đu mình lên được đỉnh và hai viên đạn nóng đỏ găm vào người anh. Chỉ có sự quyết tâm và động lực mỏng manh mang anh lại trên boong, và giữ không khiến anh rơi xuống tầng thấp hơn. Làn sương màu đen gần như thui chột tầm nhìn của anh, và âm thanh hơi thở của chính mình ầm ĩ bên tai anh.
Anh đã làm rơi khẩu súng trường. “Chết tiệt.” Anh đã làm rơi khẩu súng trường! Anh nghĩ điên cuồng. Anh hít một hơi thật sâu, ép làn sương đen biến đi, và thu gom sức lực để quay đầu. Khẩu súng trường vẫn ở đó, nằm chặt trong bàn tay trái của anh, nhưng anh không thể cảm thấy nó. Phần bên trái cơ thể anh thấm đẫm máu của chính anh, gần như đen xì trong ánh sáng yếu ớt. Lồng ngực anh nhấp nhô với hơi thở gấp rút, Sabin với bàn tay phải ra phía trước và nắm lấy khẩu súng. Cảm nhận về nó trong bàn tay anh khiến mọi thứ khá lên chút xíu, nhưng không nhiều. Mồ hôi túa ra và chảy khắp người anh thành từng dòng, hòa lẫn với máu. Anh phải làm gì đó, hoặc chúng sẽ có được anh.
Tay và chân trái không còn tuân lệnh não anh nữa, nên anh lờ chúng đi, kéo lê mình sang một bên sử dụng mỗi tay và chân bên phải. Chống cây súng vào bên vai phải, anh lại nhắm bắn con thuyền bên kia một lần nữa, cho chúng biết rằng anh vẫn sống và nguy hiểm để chúng không xông tới.
Liếc xuống, anh đánh giá vết thương của mình. Một viên đạn đã xuyên qua những lớp cơ bên ngoài đùi trái của anh, một viên khác xuyên qua vai trái, mỗi viên đều đủ nguy hiểm. Sau lần tác động bỏng rát đầu tiên vai và cánh tay anh đã tê liệt, vô dụng, và chân anh không còn nâng đỡ sức nặng cơ thể nữa, nhưng từ những kinh nghiệm trong quá khứ anh biết rằng sự tê liệt sẽ sớm phai đi, và với cơn đau anh sẽ lấy lại chút hữu dụng từ những bắp cơ bị thương, nếu anh có thể đợi được đến lúc ấy.
Anh mạo hiểm nhìn một lần nữa và thấy rằng con thuyền kia đang vòng ra đằng sau anh. Boong trên để hở phía sau, và họ sẽ ngắm thẳng được vào anh.
“Sabin! Chúng tôi biết anh đã bị thương! Đừng bắt bọn tôi phải giết anh!”
Không, chúng sẽ thích có anh còn sống hơn, để “tra hỏi”, nhưng anh cũng biết chúng sẽ không mạo hiểm. Chúng sẽ giết anh nếu phải thế, còn hơn là để trốn thoát.
Nghiến chặt răng, Sabin kéo lê mình tới bảng điều khiển và với tay lên để xoay khóa trong ổ khởi động. Bộ máy mạnh mẽ gầm gừ sống dậy. Anh không thể nhìn xem mình đang đi đâu, nhưng chuyện đó không quan trọng, kể cả anh có đâm vào con thuyền kia đi chăng nữa. Thở hổn hển, anh tựa vào boong, cố lấy lại sức lực, anh phải với tới van lưu, và anh chỉ còn lại có vài giây nữa. Cơn đau bỏng rát đang lan ra khắp phần bên trái của anh, nhưng cánh tay và chân anh giờ đang bắt đầu phản ứng, nên anh đoán rằng cũng công bằng thôi. Anh lờ đi cơn đau đang tăng dần và nâng mình dậy trên cánh tay phải, bắt tay trái phải cử động, phải với ra, cho đến khi những ngón tay đầy máu của anh chạm được vào van và đẩy nó tiến lên. Con thuyền bắt đầu lướt đi trên mặt nước với tốc độ từ từ tăng dần, và anh nghe thấy những tiếng la hét từ tàu bên kia.
“Đúng vậy, cô bé,” anh thở dốc, khuyến khích con tàu. “Đi nào, chạy nào.” Anh lại vươn ra, mọi cơ bắp trong cơ thể đều chấn động vì nỗ lực ấy, và xoay xở để vươn xa đủ để đẩy cần gạt mở rộng. Con tàu nhảy lên bên dưới anh, đáp lại việc lên số với một tiếng rống gầm gừ.
Với tốc độ tối đa anh buộc phải nhìn xem nơi mình đang đến. Anh đang đón lấy một cơ hội nữa, nhưng những cơ hội này sẽ tốt hơn nhiều với từng phân khoảng cách anh tạo ra giữa mình và con tàu kia. Một tiếng rên đau đớn phát ra từ cổ họng anh khi anh nâng mình dậy trên chân, và mồ hôi mặn chát làm mắt anh bỏng rát, anh phải giữ phần lớn trọng lượng trên chân phải, nhưng chân bên trái cũng không oằn lại bên dưới, đó là tất cả những gì mà anh cầu xin. Anh liếc qua vai nhìn con tàu kia. Anh đang nhanh chóng rời xa khỏi chúng, mặc dù chúng vẫn đang bám theo.
Có một cái gì đó trên boong của con tàu đó, và một tên đang đặt một cái ống to lớn lên vai hắn.
Sabin không cần nghĩ cũng biết đó là cái gì; anh đã thấy súngbazôka quá nhiều lần để có thể nhận ra nó từ tầm xa. Chỉ một giây trước khi lóe lên, và chưa tới hai giây trước khi tên lửa làm nổ tung con thuyền, Sabin lao ra từ bên phải, nhảy vào trong làn nước màu ngọc lam của Gult.
Anh lặn sâu, sâu nhất mà anh có thể, nhưng anh đã có quá ít thời gian, cơn va chạm quấn lấy anh vào trong dòng nước như một món đồ chơi. Sự đau đớn bỏng rát ở những thớ cơ bị thương và mọi thứ lại trở nên tối đen; chỉ trong một hoặc hai giây, nhưng cũng đủ làm anh hoàn toàn mất định hướng. Anh đang nghẹt thở và không biết đâu là mặt nước. Dòng nước bây giờ không phải màu xanh lam ngọc, mà là màu đen, và nó đang nhấn chìm anh xuống.
Những năm tháng huấn luyện đã cứu mạng anh. Sabin đã không bao giờ hoảng loạn, và bây giờ cũng không phải lúc để bắt đầu. Anh ngừng dẫy dụa trong nước và buộc bản thân mình thả lỏng, và lực đẩy Acsimet tự nhiên bắt đầu nâng anh lên mặt nước. Một khi anh có thể biết đâu là hướng để nổi lên trên, anh bắt đầu cố hết sức bơi lên, dù anh gần như không thể cử động tay và chân trái. Hai lá phổi của anh bỏng rát khi cuối cùng anh khẽ nhô lên mặt nước và hít vào từng ngụm không khí ấm áp mang vị mặn của muối.
Wanda đang bốc cháy, tạo thành vệt khói đen cuồn cuồn trên bầu trời cuối ngày chỉ còn tia sáng cuối cùng. Bóng tối đã bắt đầu bao phủ lấy trái đất và mặt biển, và anh nắm bắt lấy điều đó như lớp vỏ bọc có sẵn duy nhất của mình. Con tàu đó đang lượn vòng quanh Wanda, hướng đèn chiếu vào xác tàu đắm đang cháy và khắp mặt biển; anh có thể cảm thấy dòng nước dao động bởi động cơ. Nếu chúng không tìm thấy cơ thể anh - hoặc là những thứ chúng chờ đợi còn sót lại ít nhiều gì đó - chúng sẽ tìm kiếm anh; chúng sẽ phải làm thế. Chúng không có khả năng làm điều khác. Ưu tiên hàng đầu của anh vẫn như trước: anh phải tránh khỏi chúng càng xa càng tốt.
Một cách vụng về, anh xoay lưng lại và bắt đầu bơi ngửa một bên, không ngừng lại cho đến khi anh đã cách khá xa khỏi ánh sáng của con tàu đang bốc cháy. Nhưng tình huống của anh không tốt chút nào; anh đang cách bờ biển ít nhất hai dặm, chắc chắn là gần ba. Anh yếu đi vì bị mất máu, và hầu như không thể cử động tay và chân trái. Thêm vào đó là tình huống các loài cá ăn thịt có thể bị thu hút bởi vết thương của anh trước khi anh đến gần đất liền. Anh bật ra tiếng cười trầm thấp và giễu cợt, và nghẹn thở khi một cơn sóng đập vào mặt anh. Anh bị kẹt giữa giống cá mập mang hình dáng con người và những con cá mập ở biển khơi, và chết tiệt nếu thực sự có bất kỳ sự khác biệt nào đó khi một trong hai tóm được anh, nhưng cả hai bên phải bỏ sức để làm được điều đó. Anh không có ý định khiến chuyện đó dễ dàng cho bọn chúng. Anh hít vào một hơi sâu và trôi lềnh bềnh trong khi gắng sức thoát khỏi chiếc quần shorts, nhưng nổ lực vặn xoắn đó khiến anh chìm xuống, và anh phải cố gắng trồi lên mặt nước. Anh cắn áo quần giữa hai hàm răng trong khi xem xét chiến lược tốt nhất để thực hiện. Vải denim đã quá cũ, mỏng, gần như cũ rích; anh sẽ có thể xé nó. Vấn đề là phải nổi lên trong khi làm chuyện đó. Anh sẽ phải dùng tay và chân trái, hoặc là anh không bao giờ có thể giải quyết được.
Anh không còn sự lựa chọn; anh phải làm những điều cần thiết, mặc kệ đau đớn.
Anh nghĩ anh có thể lại ngất xỉu khi anh bắt đầu đạp lên nước, nhưng một phút trôi qua, mà cơn đau vẫn không giảm đi. Một cách dứt khoát, anh nhai mép quần shorts, cố gắng tạo một đường rách trên vải. Anh bắt sự đau đớn ra khỏi đầu mình khi răng anh cắn xé quần áo, và anh mau chóng xé được lên đến cạp quần, nơi những lớp vải được gia cố và đường may đôi khi khiến anh ngừng tiến độ lại. Anh bắt đầu xé thêm lần nữa, cho đến khi anh có bốn mảnh vải lỏng lẽo dính vào cạp quần, sau đó anh bắt đầu nhai dọc theo cạp quần. Mảnh thứ nhất trở nên lỏng ra, và anh giữ nó trong tay trong khi tiếp tục tháo mảnh thứ hai.
Anh xoay lưng lại và thả nổi, rên lên khi thả lỏng bên chân bị thương. Nhanh chóng anh buộc hai mảnh đó lại với nhau tạo thành chiều dài vừa đủ để bao quanh chân mình. Sau đó anh buộc dây garô tạm thời quanh đùi, để chắc chắn mảnh vải che phủ đến tận cùng vết thương. Anh siết nó chặt hết mức có thể mà không làm nghẽn tuần hoàn, nhưng anh phải tạo áp lực lên những vết thương để chúng ngừng chảy máu.
Vai thì sẽ khó hơn. Anh cắt và kéo cho đến khi anh xé hai mảnh còn lại từ cạp quần, rồi sau đó buộc chúng lại với nhau. Anh phải đặt miếng băng tạm thời này như thế nào đây? Anh thậm chí không biết anh có một vết thương hở ở sau lưng, cũng như viên đạn có còn trên vai anh không. Chậm rãi, lúng túng, anh cử động tay phải và sờ lưng mình, nhưng những ngón tay nhăn nheo của anh chỉ tìm thấy làn da trơn nhẵn, điều đó có nghĩa là đầu đạn vẫn còn nằm trong người anh. Vết thương nằm cao sát trên vai, và băng nó lại gần như là không thể với vật dụng anh có trong tay.
Thậm chí là buộc lại với nhau, hai mảnh cũng không đủ. Anh bắt đầu nhai tiếp, xé nhỏ thành hai mảnh nữa, rồi buộc chúng vào hai mảnh kia. Cố gắng lắm anh mới có thể quàng mảnh vải quanh lưng mình, quấn chúng xung quanh vòng qua nách và buộc thành một mối chặt trên vai. Sau đó anh cuốn phần còn thừa thành miếng đệm và trượt nó vào dưới cuộn nối, điều chỉnh nó phủ lên vết thương. Đó là một cái gạc vụng về nhất, nhưng đầu óc anh đang choáng váng, và trạng thái lờ mờ chết chóc đang dần dần lan tỏa khắp tay chân anh. Một cách cương quyết, Sabin đẩy cả hai cảm giác ấy ra xa, chăm chú quan sát những vì sao như một nổ lực để định hướng cho mình. Anh sẽ không bỏ cuộc; anh có thể thả nổi, và anh có thể xoay xở để bơi trong những khoảng ngắn. Có thể sẽ lâu, nhưng trừ khi cá mập tóm được anh, chết tiệt, anh nhất định sẽ tiến được vào bờ. Anh xoay lưng lại và nghỉ trong một ít phút trước khi anh bắt đầu quá trình chậm chạp và đau đớn để bơi vào bờ.
***
Đó là một đêm oi bức, thậm chí là ở ngay giữa tháng Bảy ở trung tâm Florida. Rachel Jones tự động điều chỉnh công việc tương ứng với thời tiết, đón nhận một cách dễ dàng, làm công chuyện nhà vào sáng sớm hoặc là xử lý chúng vào chiều muộn. Cô đã tỉnh dậy khi mặt trời mọc, xới cỏ ra khỏi vườn rau nhỏ, cho ngỗng ăn, rửa xe. Khi nhiệt độ lên đến trên chín mươi, cô vào nhà và cho quần áo vào máy giặt, rồi sau đó dành vài giờ nghiên cứu và tìm tòi cho khóa học báo chí mà cô đã đồng ý dạy vào buổi tối ở Gainesvillekhi thu đến. Với cánh quạt máy xoay vòng trên đầu, mái tóc đen nhánh của cô được buộc túm lên cao, và chỉ mặc một cái áo rộng thùng thình và chiếc quần shorts cũ kỹ, Rachel thấy cũng khá dễ chịu mặc dù trời nóng. Một ly trà đá đặt sát bên khủy tay để cô nhấm nháp khi đọc sách.
Đàn ngỗng kêu một cách yên bình khi chúng chạy lạch bạch từ vùng cỏ này sang vùng cỏ khác, dồn lại thành bầy bởi Ebenezer Duck, con đầu đàn già nua cáu kỉnh. Đôi khi vang lên tiếng ầm ĩ của Ebenezer và Joe, chú chó nhà cô, tranh chấp về việc ai có quyền hạn trên khoảng đất nhỏ phủ đầy cỏ xanh mượt mà bên dưới cây trúc đào. Rachel bước đến cánh cửa phủ rèm và lớn tiếng bảo các con vật thả nuôi của cô hãy im lặng, và đó là sự việc thích thú nhất trong ngày. Đó là cách mà hầu như mọi ngày của cô trôi qua trong mùa hè. Mọi thứ rộn ràng vào mùa thu, khi mà mùa du lịch bắt đầu và hai quầy hàng lưu niệm ở Treasure Island và Tarpon Springs bắt đầu buôn bán khấm khá. Với khóa học báo chí, ngày tháng của cô trở nên bận rộn hơn lệ thường, nhưng mùa hè vẫn là thời gian nghỉ ngơi. Cô làm việc không liên tục đối với quyển sách thứ ba của mình, cảm thấy không có áp lực lớn nào để hoàn thành nó, khi mà kỳ hạn chưa đến cho tới Giáng Sinh, và cô hiện đi trước kế hoạch. Năng lượng của Rachel rất dễ bị đánh giá nhầm, bởi vì cô xoay sở để hoàn thành nhiều thứ mà không bao giờ tỏ ra hấp tấp.
Đây là quê hương của cô, nơi gốc rễ của cô đã bám sâu vào vùng đất đầy cát này. Ngôi nhà cô hiện đang sống là của ông nội, và vùng đất đã là của gia đình trong một trăm năm mươi năm nay. Ngôi nhà đã được tu sửa trong thập niên 50 và không còn giống với cấu trúc ban đầu. Khi Rachel chuyển vào, cô đã đổi mới bên trong, nhưng nơi này mới tạo cho cô cảm giác thân thuộc. Cô biết ngôi nhà và vùng đất xung quanh cũng tựa như cô biết gương mặt của mình phản chiếu trong gương. Chắc là tốt hơn, bởi vì Rachel không quá thường tự nhìn chằm chằm vào mình. Cô biết hàng thông cao trước nhà và đồng cỏ sum xuê đằng sau, từng ngọn đồi, cây cỏ và từng bụi cây. Một lối mòn uốn lượn quan hững hàng thông và kéo xuống bãi biển nơi dòng nước củaGulf tràn vào. Ở đây bãi biễn vẫn chưa được khai phá, phần là vì sự gồ ghề bất thường của bờ biển, phần là vì đất đai trước bãi biển được sỡ hữu bởi những người đã có nó từ bao thế hệ nay không có ý định muốn thấy những chung cư cao tầng và khách sạn mọc lên trước mặt họ. Đây là vùng đất chủ yếu để chăn nuôi; đất đai của Rachel gần như được bao phủ xung quanh bởi một nông trại to lớn, chủ sở hữu là John Rafferty, và Rafferty cũng rất không sẵn lòng để bán bất cứ mảnh đất nào để khai phá, cũng như cô.
Bãi biển là thiên đường đặc biệt của riêng Rachel, nơi để đi dạo và tìm kiếm sự thanh thản trong dòng nước cuồn cuộn bất diệt. Nơi này được gọi là Vịnh Kim Cương theo cách ánh nắng vỡ vụn ra từng mảnh trên những con sóng khi chúng đập vào những tảng đá cuội bên dưới làn nước xếp dọc theo lối vào của vịnh nhỏ. Nước vỡ tung tóe và lấp lánh rực rỡ như hàng vạn viên kim cương khi chúng cuộn tràn vào bờ biển. Ông của cô đã dạy cô bơi lội trong vịnh Kim Cương; có đôi khi có vẻ như cuộc sống của cô đã bắt đầu trong làn nước màu xanh ngọc lam này.
Chắc chắn rằng vịnh đã là trung tâm trong những ngày ấu thơ hoàng kim của cô, khi những lần đến thăm Ông luôn là những ngày vui vẻ nhất mà Rachel bé nhỏ có thể tưởng tượng được. Rồi lúc mẹ qua đời khi Rachel được mười hai tuổi, và Vịnh đã trở thành mái nhà của cô từ đấy. Có một điều gì đó ẩn chứa trong biển cả bao la đã làm vơi bớt những đỗi đau đớn quay quắt của cô và dạy cô phải biết chấp nhận. Cô đã có ông, và thậm chí vào lúc này, những suy nghi về ông cũng khiến cô mỉm cười rạng rỡ. Thật là một ông lão tuyệt diệu! Ông chưa bao giờ quá bận rộn hoặc là quá xấu hổ để trả lời những câu hỏi đôi khi quá vụng về mà một cô bé đang trưởng thành có thể hỏi, và cho cô tự do để thử sức đôi cánh của mình trong khi vẫn giữ cô một cách vững vàng trên mặt đất theo lẽ thường. Ông đã mất năm cô học xong đại học, nhưng thậm chí cái chết cũng rất phù hợp với bản chất con người ông. Ông đã mệt mỏi, mang bệnh và sẵn sàng để chết, và ông đã làm điều đó với sự nhận thức hóm hĩnh và chấp nhận, khiến cho Rachel thậm chí có một chút cảm giác bình an trước sự ra đi của ông. Cô đã thương tiếc ông, đúng thế, nhưng nỗi tiếc thương đã dịu đi bớt bởi nhận thức rằng đó là điều ông muốn.
Ngôi nhà cũ kỹ đã vắng vẻ từ đó, trong khi Rachel theo đuổi sự nghiệp của một phóng viên điều tra nghiên cứu tại Miami. Cô đã gặp và kết hôn cùng B. B. Jones, và cuộc sống đã diễn ra rất tốt đẹp. B. B còn hơn là một người chồng, anh đã là một người bạn, và họ đã nghĩ là họ có cả thế giới trên chiếc đĩa. Rồi sau đó, cái chết tàn khốc của B. B đã kết thúc mọi giấc mơ và để lại Rachel trở thành một góa phụ ở tuổi hai mươi lăm. Cô nghỉ việc và trở lại với vùng vịnh, một lần nữa tìm kiếm sự khuây khỏa trong biển cả bất tận. Cô đã bị tê liệt cảm xúc, nhưng thời gian và cuộc sống yên bình đã chữa lành cô. Tuy vậy, cô không hề có thôi thúc trở lại cuộc đời sôi nổi lúc trước. Đây là quê hương, và cô cảm thấy hạnh phúc với những điều cô đang làm hiện tại. Hai cửa hàng bán đồ lưu niệm cung cấp một cuộc sống đầy đủ, và cô phụ thêm vào thu nhập bằng cách viết báo vào dịp đặc biệt và những quyển sách phiêu lưu mà cô đã làm tốt một cách đáng ngạc nhiên.
Mùa hè năm nay cũng gần giống y như những mùa hè khác mà cô từng trải qua ở Vịnh Kim Cương, ngoại trừ việc trời nóng hơn. Nhiệt độ và độ ẩm gần như ngột ngạt, và có vài ngày cô cảm thấy không muốn làm gì bất cứ công việc vất vả nào ngoại trừ nằm dài trên võng và quạt mát mình. Mặt trời lặn làm dịu bớt, nhưng thậm chí cũng chỉ là tương đối. Đêm mang đến những cơn gió hiu hiu từ Gulf làm dịu đi làn da nóng bỏng của cô, nhưng khí trời vẫn quá nóng để ngủ. Cô đã đi tắm cho mát, và bây giờ cô đang ngồi trên chiếc xích đu trước hiên nhà trong bóng tối, uể oải giữ cho chiếc đu đong đưa với những cử động của chân mình. Tiếng sợi xích kẽo kẹt cùng vang lên với tiếng kêu của những con dế và tiếng ộp ộp của ếch nhái; Joe nằm dưới hiên nhà phía trước mành của, ngủ gà gật và mơ màng trong những giấc mơ khoái trá của loài chó. Rachel nhắm mắt lại, thưởng thức làn gió nhẹ thổi lên mặt mình và suy nghĩ những việc cô sẽ làm vào ngày hôm sau: chắc chắn cũng là những việc cô đã làm hôm nay, và ngày hôm qua, nhưng cô không ngại sự quen thuộc này. Cô đã tận hưởng những ngày tháng thú vị trong quá khứ, lấp đầy bởi sự nguy hiểm đặc biệt quyến rũ, cũng như bây giờ cô thích thú với cuộc sống an bình hiện tại.
Mặc dù cô chỉ mặc đồ lót và áo sơ mi trắng quá khổ của đàn ông, với tà áo cuộn lên và ba nút đầu để mở, cô vẫn có thể cảm thấy những giọt mồ hôi nhỏ giữa hai bầu ngực mình. Hơi nóng làm cô không ngủ được, và cuối cùng cô đứng lên. “Tao đi dạo đây,” cô nói với chú chó, nó vểnh một tai lên lắng nghe nhưng chẳng buồn mở mắt.
Rachel không thật sự mong đợi nó sẽ đi cùng cô, Joe không phải là một con chó thân thiện, thậm chí là với cô. Nó tự lập và khó gần gũi, thêm vào đó là những cái chân to dài với hàng lông cổ dựng đứng lên và răng lộ ra ngoài. Cô nghĩ nó ắt hẳn đã bị đánh đập trước khi xuất hiện ở sân nhà cô vài năm trước, nhưng hai bên đã thiết lập một thỏa thuận. Cô cho nó ăn, và nó làm tròn trách nhiệm của một chú chó bảo vệ. Nó vẫn không đồng ý cho cô vuốt ve, nhưng sẽ đến bên cô ngay lập tức nếu có kẻ lạ mặt đến, và đứng đó nhìn chằm chằm vào kẻ xâm nhập cho đến khi nó quyết định người đó không nguy hiểm, hoặc là người lạ rời đi. Nếu Rachel làm việc trong khu vườn, Joe thường đứng gần đó. Đây là mối quan hệ hợp tác dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau, và cả hai đều hài lòng với điều đó.
Chuyện này cũng dễ dàng, Rachel suy nghĩ trong khi băng ngang qua sân và đi dọc theo con đường mòn giữa những hàng thông cao cao dẫn xuống bãi biển. Joe không thường xuyên phải làm chú chó bảo vệ; rất ít người đến nhà của cô, ngoại trừ nhân viên đưa thư. Ngôi nhà của cô ở tại ngõ cụt của con đường không trải nhựa cắt ngang qua khu đất của Rafferty và nhà cô là ngôi nhà duy nhất. John Rafferty là hàng xóm duy nhất của cô, và ông ta không phải dạng người ghé vào để tán gẫu. Honey Mayfield, bác sĩ thú ý của địa phương, thỉnh thoảng ghé qua sau khi đến khám tại trang trại của Rafferty, và giữa hai người đã phát triển một tình bạn khá thân thiết, còn ngoài ra thì Rachel thường chỉ có một mình, đây là một lý do mà cô cảm thấy thật thoải mái khi đi dạo vòng quanh mỗi khi trời tối chỉ mặc đồ lót và áo sơ mi.
Con đường mòn dần dần dốc xuống xuyên qua hàng thông. Những vì sao sáng lấp lánh và chi chít trên bầu trời, và Rachel đã đi trên con đường này từ thuở bé, nên cô không cần đến đèn pin. Thậm chí giữa những cây thông, cô vẫn có thể quan sát đủ tốt để tìm đường đi. Đã được một phần tư dặm từ ngôi nhà đến bãi biển, một cuộc tản bộ dễ chịu. Cô yêu thích việc tản bộ ở bãi biển vào đêm tối; đây là khoảng thời gian yêu thích của cô để lắng nghe uy quyền của biển cả, khi những ngọn sóng chỉ còn là một màu tối đen ngoại trừ phần đỉnh có bọt lấp lánh ánh ngọc trai. Đây cũng là lúc thủy triều xuống, và Rachel thích bãi biển vào lúc thủy triều xuống. Thủy triều xuống là lúc dòng nước biển rút đi và bộc lộ những kho tàng mà nó mang theo để lại trên cát, như lễ vật của tình yêu. Cô đã sưu tập được rất nhiều báu vật của biển cả vào lúc thủy triều xuống, và không bao giờ hết ngạc nhiên trước những vật kỳ diệu mà nước biểnGulf màu ngọc lam mang đến dưới chân cô.
Đây là một đêm đẹp trời, không mây và trắng, và những vì sao tỏa sáng hơn hết trong những năm qua, ánh sáng của chúng khúc xạ trên những ngọn sóng như muôn vàn viên kim cương. Vịnh Kim Cương. Thật là một cái tên đẹp. Bãi biển hẹp và gập ghềnh, với những bụi cỏ mọc dọc theo bờ, và cửa vịnh được lót bằng những viên đá lởm chởm đặc biệt nguy hiểm vào lúc thủy triều xuống, nhưng cùng với những điều không hoàn hảo ấy, vịnh tạo nên một ma lực với sự phối hợp giữa ánh sáng và nước biển. Cô có thể đứng hàng giờ quan sát làn nước lấp lánh rực rỡ, bị mê hoặc bởi uy quyền và sự lộng lẫy của biển.
Bãi cát sỏi làm mát lạnh đôi chân trần của cô, và cô đào ngón chân mình sâu hơn. Gió thổi giật từng cơn trong giây lát, thổi tung mái tóc ra khỏi gương mặt cô, và Rachel hít vào luồng không khí trong lành có vị muối mặn. Chỉ có cô và biển.
Gió đổi hướng, trêu đùa cô, thổi những sợi tóc qua mặt cô. Cô đưa tay lên để vuốt tóc ra khỏi mắt và dừng lại giữa lúc đó, đôi mày cô khẽ nhíu lại khi nhìn chăm chú vào làn nước. Cô có thể thề rằng cô đã thấy cái gì đó. Chỉ trong giây lát thôi, ở đó vụt hiện lên một cử động, nhưng bây giờ thì đôi mắt căng lên chăm chú của cô không nhìn thấy gì ngoài những cơn sóng tràn lên nhịp nhàng. Có lẽ đó chỉ là một con cá, hoặc là một mảnh gỗ trôi dạt lớn. Cô muốn tìm một mảnh thật tốt để chuẩn bị cho dàn hoa, nên cô bước đến gần rìa ngọn sóng, vuốt tóc ra phía sau để tầm nhìn không bị che khuất.
Nó lại xuất hiện lần nữa, một cái gì đó nhấp nhô trên làn nước! Cô nhanh chóng bước tới trước, sóng biển làm ướt hai chân. Lúc đó vật màu đen lại cử động và có một hình dạng thật ngộ nghĩnh. Ánh sáng lấp lánh bằng bạc của trăng làm nó trông như một cánh tay, yếu ớt quật về phía trước, như một người bơi lội mệt mỏi gắng sức đấu tranh để phối hợp. Một cánh tay cơ bắp, và như thế, và khối đen bên cạnh có thể là cái đầu.
Đột ngột nhận thức được, cả cơ thể Rachel như bị kích thích bởi dòng điện. Cô đã ở trong nước trước khi cô nhận thấy, cử động trên những cơn sóng hướng về phía người đàn ông đang gắng sức. Dòng nước ngăn trở bước đi của cô, từng cơn sóng đẩy cô lại với sức ép tăng dần; thủy triều vừa bắt đầu lên trở lại. Người đàn ông chìm xuống trong tầm nhìn của cô, và một tiếng thét bật lên từ cổ họng cô. Cuồng loạn, cô lao về phía anh, nước đã dâng cao đến ngực, những cơn sóng đập vào mặt cô. Anh ta đâu rồi? Làn nước tối đen không cho cô thấy vị trí của anh. Cô vươn đến vị trí nơi cô đã nhìn thấy anh, nhưng đôi tay tìm kiếm điên cuồng của cô không tìm thấy gì cả.
Sóng sẽ đẩy anh ta về phía bãi biển. Cô xoay người, quay trở lại bờ biển và lại nhìn thấy anh ngay trước khi đầu anh lại biến mất bên dưới làn nước lần nữa. Cô lao tới trước, bơi mạnh mẽ, và hai giây sau tay cô chạm vào một mái tóc dày. Cô giật mái đầu anh lên trên mặt nước một cách dữ dội, nhưng anh hoàn toàn thiếu sinh khí, đôi mắt nhắm chặt. “Anh đừng chết trước mặt tôi!” cô yêu cầu giữa hai hàm răng nghiến chặt, bắt lấy dưới vai và kéo anh ta vào. Hai lần thùy triều đang đến đập vào chân cô phía bên dưới, và lần nào cô cũng nghĩ cô sẽ chết đuối trước khi cô có thể vật lộn để thoát khỏi sức nặng giam cầm của người đàn ông.
Cuối cùng cô cũng đến được dòng nước chỉ cao đến gối, và anh ta yếu ớt chìm xuống. Cô kéo mạnh cho đến khi anh ta gần như ra khỏi mặt nước, rồi ngã sụp xuống chống hai tay và đầu gối dưới cát, ho và thở gấp. Tất cả các cơ bắp run rẩy phản ứng, cô trườn lên anh.