Con cọp vàng phóng như gió cuốn. Nguyên nghe bên tai gió thổi ràn rạt, cảnh vật lướt qua mắt nó loang loáng đến nỗi nó phải nhắm tịt mắt lại để khỏi bị rơi vào trạng thái mất thăng bằng.
Tiếng ồn ào lúc đầu còn nghe văng vẳng, lát sau đã im bặt. Nguyên biết con cọp chạy như thế là nhanh lắm. Kẹp chặt hai chân vào hông cọp cho khỏi ngã, nó bắt đầu nghỉ ngợi, xâu chuỗi các sự kiện lại với nhau và lờ mờ đoán ra ông “cụ” cứu nó chính là Ama Êban, giáo chủ giáo phái Madagui.
Chết rồi! Nguyên rên lên trong đầu khi chợt nhớ đến sự có mặt bất ngờ của ông K’Tul và bà Êmô tại khu rừng. Như vậy là mọi chuyện coi như vỡ lỡ hết trọi. Họ đã biết nó và Kăply là những chiến binh giữ đền đời thứ ba, cũng như biết hai đứa nó đã tìm ra báu vật của xứ Lang Biang, thứ mà gần hai chục năm nay họ đã miệt mài truy lùng trong vô vọng. Nghĩ đến Êmê và K’Tub, bụng Nguyên lại giật thon thót. Hổng biết ông K’Tul và bà Êmô nghĩ gì và đối xử với hai đứa bạn nó như thế nào khi họ bắt gặp chúng ở một nơi có lẽ là họ không bao giờ ngờ tới.
Thình lình Nguyên thấy mình đang ở trong một tòa đại sảnh rộng lớn và vô cùng tráng lệ.
- Tới nơi rồi. – Giáo chủ Ama Êban khẽ giọng.
Nguyên trèo xuống khỏi lưng cọp, tò mò đưa mắt nhìn quanh, lòng dậy lên một sự sùng kính mơ hồ khi bắt gặp khung cảnh trang nghiêm như thể nó đang ở trong một ngôi đền.
- Con có biết đây là đâu không con trai?
Giáo chủ Ama Êban hỏi giọng thân ái, vẫn ngồi trên lưng cọp, mặt quay về phía Nguyên khiến thằng nhóc có cảm giác ông đang ngồi trên một chiếc ghế da, nhất là con cọp vàng lúc này đã nằm phục xuống một cách ngoan ngoãn.
- Chắc đây là… lâu đài Sêrôpôk, thưa ngài.
Nguyên rụt rè đáp, ánh mắt hồi hộp đi qua đi lại giữa dãy cột đồng chạm trổ vô số cọp ở mọi tư thế.
- Con đoán đúng rồi đó. – Vị giáo chủ mỉm cười. – Như vậy chắc con cũng đoán ra ta là Ama Êban.
- Vâng, thưa ngài.
- Thiệt là may. – Ama Êban bất giác cảm khái, ông khẽ lắc lư người trên lưng như để phụ họa cho tâm trạng của mình. – Nếu bọn ta không tới kịp, chắc giờ này con đã…
Ama Êban bỏ lửng câu nói nhưng Nguyên vẫn bắt gặp mình đang run lên. Bây giờ đã tỉnh trí lại, nó mới nhận ra nó vừa thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Nếu bọn người của giáo phái Madagui không tới kịp, chắc chắn nó đã lãnh trọn thần chú La sát của Balikem thêm lần nữa, mà lần thứ hai thì hi vọng sống sót thiệt tình là rất đỗi mong manh.
Nguyên rùng mình, mường tượng tới cảnh lưỡi hái thần chết vừa lướt qua cổ mình:
- Con… con…
- Con khỏi cần cảm ơn ta. – Như đọc được ý nghĩ trong đầu thằng nhóc, Ama Êban nói ngay. – Vợ chồng K’Rahlan và Kaming với ta là chỗ thân tình. Ta không thể nhìn con trai của bạn hữu lâm nguy mà không cứu.
- Làm sao mà ngài…
Nguyên vọt miệng thắc mắc, nhưng nó kịp nhận ra đó là một câu hỏi đại ngu nên lập tức ngưng bặt.
- Có lẽ con đang muốn biết tại sao bọn ta đến đúng khu rừng đó để cứu con? – Ama Êban gật gù trên lưng cọp, giọng thản nhiên như thể Nguyên chưa hề nghi ngờ ông và nếu có thì ông cũng không coi đó là một sự xúc phạm. – Dễ hiểu thôi, con trai. Ngay từ khi được tin Balikem tái xuất hiện và gây ra những chuyện rắc rối, người của lâu đài Sêrôpôk đã bí mật bám sát cô ả và đồng bọn.
Rõ ràng, Nguyên đang rất muốn “xáng” cho mình một bạt tai. Đang rối trí về những biến cố vừa xảy ra, nó quên phắt một điều hết sức đơn giản: nếu như phe Hắc Ám có thể theo dõi tụi nó một cách dễ dàng thì giáo phái Madagui cũng hoàn toàn có thể làm như thế với bọn người của Balikem.
- Đó là chưa kể, từ lâu ta đã biết con và thằng bé K’Brêt là hai chiến binh giữ đền. Giúp đỡ chiến binh giữ đền là một trong những nhiệm vụ mà các giáo chủ đời trước đã tuyên thệ, con trai à.
Câu nói của vị giáo chủ khiến tóc gáy Nguyên dựng đứng lên nhưng liền sau đó nó phải cố kềm chế để khỏi phì cười khi chợt nhận ra chẳng có gì bí mật trong chuyện này. Tụi nó đã chạm mặt Tứ bất tử, tổng quản lâu đài Sêrôpôk, trên đường đi đến núi Lưng Chừng. Hơn nữa, người trực tiếp giúp nó đến được hòn núi huyền bí đó chính là họa sĩ Yan Dran, một siêu phù thủy của lâu đài Sêrôpôk. Hiển nhiên giáo chủ Ama Êban phải biết tụi nó là ai.
Đang lẩn thẩn nghĩ ngợi, Nguyên chợt điếng người và hoàn toàn không tự chủ, câu hỏi bật ra khỏi đôi môi nó, nghe như thể một tiếng khan:
- Vậy là cậu K’Tul và dì Êmô cũng đã biết tụi con là những chiến binh giữ đền từ lâu?
- Thì vậy chứ sao, con trai. – Vị giáo chủ nhìn thằng bé đang đứng đực ra một cách tội nghiệp, nói như dỗ dành. – Hổng lẽ con cho rằng có những chuyện bọn Tứ bất tử và Yan Dran biết mà K’Tul và Êmô không biết sao?
- Vậy mà con cứ tưởng…
Nguyên dở khóc dở cười, lần thứ hai trong vòng năm phút nó không thể nói hết câu. Có cái gì đó như hạt táo treo ngang cổ họng nó.
Ama Êban đưa tay vuốt chòm râu dài (cử chỉ hết sức từ tốn, trông như thể ông đang nâng niu một con mèo) và khẽ hắng giọng, mắt không rời thằng nhóc trước mặt:
- Chính ta đã dặn K’Tul và Êmô đừng tỏ thái độ gì trước mặt tụi con. Chẳng qua ta muốn tâm trí tụi con tập trung hoàn toàn vào sứ mạng của chiến binh giữ đền.
Hàng mớ dấu hỏi bay lượn trong óc Nguyên như một đàn bươm bướm, nhưng nó cũng hiểu là không nên hỏi han thêm nữa. Mà nếu muốn hỏi, nó cũng không còn đủ thời gian.
- Ta rất mừng là rốt cuộc con cũng đã rời khỏi nơi nguy hiểm. – Giáo chủ Ama Êban tặc lưỡi nói. – Theo ta, điều quan trọng nhất bây giờ là con nên nghĩ ngơi một chút.
Ông chỉ tay về phía cánh cửa màu đỏ ở cuối đại sảnh, giọng ân cần:
- Con cứ vào đó ngả lưng. Đó là mật thất của ta, không ai trên đời này có thể đột nhập được.
Ông vừa nói xong, Nguyên ngạc nhiên thấy cánh cửa từ từ mở ra, cung cách rất giống với chiếc cầu thang bằng đá trước văn phòng thầy N’Trang Long mỗi khi nó tự nhấc mình lên để tụi học trò chui qua.
Mật thất của giáo chủ Ama Êban hoàn toàn trái ngược với bí thất của ông K’Tul. Căn phòng của vị giáo chủ không hề bề bộn, cũng không có vật dụng gì nhiều. Trên vách treo ba bức tranh vẽ hình người cả ba đều ngồi trên lưng cọp, tướng mạo đoan chính và hiền hậu, Nguyên đoán đó là chân dung của các vị giáo chủ đời trước.
Chính giữa phòng là một chiếc giường trải gấm đỏ và một chiếc gói màu trắng làm bằng loại tơ rất mịn. Một chiếc bàn nhỏ kê sát đầu giường, bên trên đặt một chiếc bình cổ cao bằng sứ màu lam và một chiếc cốc pha lê.
Nguyên liếc sơ qua căn phòng, không chú ý gì nhiều mà thiệt ra một căn phòng đơn sơ như thế này cũng không có gì đáng để chú ý, rồi lật đật ném người xuống nệm, cảm thấy rõ rệt cơn buồn ngủ đang níu lấy mi mắt nó.
Nhưng Nguyên không ngủ được ngay. Nó nhắm mắt lại nhưng không thiếp đi như nó tưởng. Hình ảnh cuộc chiến hồi chiều hiện ra trong óc khiến cơ thể nó không những không dịu đi mà đột nhiên trở nên căng thẳng. Nó không rõ tụi bạn nó giờ này đang ở đâu và đang làm gì nhưng nó tin các siêu phù thủy cỡ Tứ bất tử, Yan Dran, K’Tul và Êmô nếu không đánh bại được bọn người của Balikem thì cũng thừa sức bảo vệ tụi Kăply tránh xa mọi nguy hiểm.
Nguyên liếm môi, sờ tay lên túi áo, cảm thấy nó và Kăply đã đi rất gần tới đích: chiếc hộp chứa câu thần chú kim cương số bảy tụi nó đã tìm được rồi, chỉ cần đem về trường giao cho thầy N’Trang Long nữa là xong.
Sau đó, nó và Kăply có thể thảnh thơi nghĩ đến chuyện quay về làng Ke. Bây giờ việc quay về làng đối với tụi nó đã không còn khó khăn nữa. Cho đến giờ này, tụi nó đã biết những chiếc ghế ngựa vằn đang được cất giữ ở đâu, và với chiếc bao tay của Suku, tụi nó có thể ra vào bí thất của ông K’Tul bất cứ lúc nào. Phải quay về làng thôi. Tụi nó đi như vậy đã quá lâu rồi. Mấy tháng rồi nhỉ? Hai tháng hay ba tháng? Hoặc bốn tháng? Cũng có thể là năm tháng? Nguyên nghĩ và nghĩ, buồn bực vì ý thức về thời gian trong đầu nó rất đỗi lờ mờ.
Nguyên lại chạm tay vào túi áo, yên chí thấy chiếc hộp vẫn nằm ở đó. Chậc, nếu giáo chủ giáo phái Madagui không tới kịp, có lẽ chiếc hộp này đã bị Balikem cướp đi rồi! Nghĩ đến Ama Êban, lòng Nguyên bất giác dâng lên một mối cảm kích sâu xa. Ông đã đến kịp lúc, đã cứu nó một cách vô điều kiện, chỉ vì nó là con trai của K’Rahlan và Kaming. Và vì nó là chiến binh giữ đền đời thứ ba của xứ Lang Biang. Nó biết ơn cả chuyện ông đã ý tứ không nhắc một lời nào về báo vật mà nó đang giữ, cứ như thể ông đột ngột quên bẵng đi hoặc ông không biết trên đời có một chiếc hộp như vậy. Có lẽ ông ta không muốn mình bối rối hoặc khó xử! Nguyên cảm động nghĩ thầm, và ngay trong lúc đó tự nhiên nó cảm thấy không khí trong phòng oi bức kỳ lạ.
Nguyên chồm người khỏi gối, đưa mắt nhìn quanh, đoán là tại căn phòng bít bùng quá. Giống như mọi bí thất khác, căn phòng của giáo chủ Ama Êban không có một kẽ hở cho gió lọt vào, ngoại trừ lối ra vào độc nhất nhưng cánh cửa chỗ đó lúc này cũng đã đóng chặt.
Nguyên lại nằm xuống nhưng một lúc sau nó cảm thấy nóng không chịu nổi. Mồ hôi túa ra dầm dề như đang ở trong lò than, Nguyên đành phải ngồi bật dậy, cởi áo ra đặt lên chiếc bàn cạnh đó và cúi gập người thở dốc.
Thở một hồi, Nguyên vói tay lên bàn tính cầm lấy bình nước nhưng khi ngoảnh đầu lại, nó có cảm giác như bị ai quai búa vào giữa mặt: chiếc áo nó vừa đặt trên bàn đã biến mất từ hồi nào.
Nguyên điếng hồn khi nhớ ra chiếc hộp kim loại vẫn còn trong túi áo. Nó hấp tấp bay xuống khỏi giường, quét mắt quanh phòng một vòng rồi lao thục mạng ra cửa.
Cửa khóa.
Nguyên quýnh quíu chĩa tay ra phía trước, niệm một lô thần chú, hổng nhớ là mình đã dùng những thần chú gì.
Trong một thoáng, nó đã rất muốn ngồi bệt xuống đất khi thấy cánh cửa trước mặt vẫn trơ trơ.
Mình đã rơi vào bẫy của Ama Êban rồi! Hừm, lão đã âm thầm nướng chín căn phòng để mình phải cởi áo ra. Nhưng tại sao lão phải tốn nhiều công sức để bày mưu như vậy, khi mà trình độ pháp thuật của lão thừa sức đánh bại mình, lão lấy chiếc hộp của mình chắc chắn cũng dễ dàng như lấy đồ trong túi lão? Nguyên tự hỏi rồi nó tự giải đáp ngay: có lẽ quy định của giáo phái không cho phép lão trực tiếp đương đầu với chiến binh giữ đền.
Nguyên vừa nghĩ ngợi vừa đảo mắt nhìn quanh, tuyệt vọng khi không tìm thấy chỗ nào có vẻ như là một lối ra. Nguyên chưa học qua môn độn thổ nhưng nó biết chắc nếu như nó có là một bậc thầy về độn thổ cũng không ích gì trong lúc này. Mật thất của Ama Êban chắc chắn đã được ếm bùa Bất khả xâm phạm hoặc một loại bùa phép tương tự.
Nguyên dứt một lúc cả chục sợi tóc, mặt vẫn xám xịt. Nghĩ đến công sức nó và tụi bạn đã bỏ ra trong thời gian qua để truy tìm báu vật, khi sắp sửa hoàn thành sứ mạng mọi thứ bỗng hóa thành công cốc, trái tim nó như không muốn đập nữa. Nguyên nghĩ đến thầy N’Trang Long, đến sự kỳ vọng của thầy, nghĩ đến ngày trở về làng Ke thoáng chốc bỗng xa hun hút, mắt nó bỗng ngân ngấn nước, ấm ức và tức tưởi.
Chưa bao giờ Nguyên là một đứa mau nước mắt nhưng lúc này có vẻ như nó đã biến thành một thằng nhóc yếu đuối ngay từ khi còn bú sữa mẹ. Ờ, quả thật là chưa bao giờ nó tự nguyền rủa mình nhiều như lúc này. Phải nói là nó giận mình ghê gớm. Nó thừa biết giáo chủ Ama Êban thèm khát câu thần chú kim cương số bảy như thế nào, lão đã sai thuộc hạ mai phục trong lâu đài K’Rahlan gần hai mươi năm chỉ với một mục đích duy nhất là tìm cho bằng được chiếc hộp này, thế mà nó đã cho phép mình chủ quan một cách ngu ngốc.
Trong khi Nguyên đang rất giống một kẻ bị sự chán nản đè bẹp, đầu óc đột ngột đông cứng như thể mọi ý nghĩ đều đóng thành băng thì cửa phòng bỗng xịch mở.
Nguyên chưa kịp phản ứng thì mái tóc vàng óng quen thuộc của bà Êmô đã bất ngờ thò vào.
- Con theo ta. – Bà nói nhanh, vẻ gấp gáp và căng thẳng.
Như người chết đuối vớ được cọc, Nguyên lao ngay ra cửa, không thèm quan tâm đến việc bà Êmô là thuộc hạ thân tín của Ama Êban, mà nếu nó nghĩ đến chuyện đó, có lẽ nó cũng bất chấp. Khao khát nóng bỏng nhất của nó trong lúc này là thoát ra khỏi căn phòng ngột ngạt, tù túng này càng nhanh càng tốt.
Nguyên không hỏi, bà Êmô cũng không nói một lời. Bà lầm lũi dẫn Nguyên chạy ra khỏi tòa đại sảnh, tiếp tục băng qua vô số những cánh cửa mà nếu không có thần chú của giáo phái Madagui, chắc không ai trên đời này có thể mở được.
Nguyên cứ lẳng lặng theo bà Êmô đi miết, bụng thấp thỏm, còn đầu thì xoay như chong chóng, không biết phải đẩy trí tưởng tượng của mình theo hướng nào.
Khi cả hai lọt ra khoảnh sân rộng bên ngoài và mắt Nguyên bắt gặp bầu trời chi chít sao trên đầu, nó mừng rỡ tin rằng mình đã thoát.
- Dì…
Nguyên ấp úng, quá kích động nên không biết phải bắt đầu lời cảm ơn bà Êmô như thế nào.
- Khoan đã, con. – Bà Êmô giơ cao chiếc quạt lông chim trên tay, mắt nhìn trừng trừng ra phía trước. – Chúng ta chưa thực sự an toàn đâu.
Nhìn theo hướng mắt của bà Êmô, Nguyên giật thót, lập tức nhận ra điều gì đã làm bà lo ngại. Ngay chỗ bức tường thành với cả chục tháp canh lố nhố bao quanh lâu đài, giáo chủ Ama Êban đang ngồi lù lù trên lưng cọp, râu tóc dựng ngược cho biết là lão đang nổi điên.
Đối diện với lão là họa sĩ Yan Dran tóc tai rối bù, cả hai dường như đang tranh cãi và nhìn điệu bộ của hai người Nguyên đoán là cuộc đấu khẩu đang tới hồi quyết liệt.
Nguyên đứng sau lưng bà Êmô, nép mình trong bóng tối, cố dỏng tai nghe xem thầy trò họ đang bất đồng nhau chuyện gì.
- Ngươi giỏi lắm, Yan Dran! – Tuốt đằng xa, Nguyên vẫn nghe rõ tiếng nghiến răng của Ama Êban theo gió vẳng lại. – Ta không ngờ có một ngày ngươi dám chống lại ta.
- Tôi vẫn một mực trung thành với ngài, thưa giáo chủ. – Tiếng Yan Dran uất ức.
- Hừm. – Ama Êban lắc lư một cách giận dữ trên lưng cọp. – Ta chưa từng nghe nói tới cái loại trung thành có tên là bất tuân thượng lệnh.
Yan Dran vẫn giữ vẻ mặt lì lì:
- Khuyên giải giáo chủ là nghĩa vụ của chúng tôi.
- Yan Dran! – Giọng Ama Êban cất lên nhọn hoắt. – Ta chẳng làm gì sai.
Yan Dran nhún vai:
- Ngài sai rồi.
Ánh mắt Ama Êban lóe lên, đáp nhanh xuống mặt tên thuộc hạ và bám cứng lấy bộ mặt bướng bỉnh đó trong vòng một phút như thể cố nhớ xem hắn ta là ai.